CÔNG CHÚA NHỎ - CHƯƠNG 27 - A LITTLE PRINCESS - FRANCES HODGSO BURNETT - TRUYỆN THIẾU NHI
CÔNG CHÚA NHỎ
Tác giả: Frances Hodgso Burnett
Thể loại: Truyện thiếu nhi, Tiểu thuyết thế giới
CHƯƠNG 27: NHỮNG GÌ MELCHISEDEC NGHE ĐƯỢC VÀ THẤY ĐƯỢC
Cũng đúng vào chiều hôm đó, một sự
kiện rất lạ đã xảy ra trên căn phòng áp, cái khi Sara đã đi ra ngoài. Chỉ có một
mình Melchisedec nghe được và nhìn thấy. Nó rất hoang mang, hoảng sợ nên đã
chui về hang và trốn trong đó. Nó sợ đến run cả người lên khi nó rón rén bò ra
và chứng kiến những gì xảy ra trong phòng áp mái hôm đó.
Căn phòng hoàn toàn tĩnh lặng suốt
cả ngày vì Sara phải dậy đi làm từ mờ sáng. Sự tĩnh lặng đó bị phá vỡ bởi những
hạt mưa dội xuống miếng ngói đậy cửa sổ lấy ánh sáng trên mái nhà. Melchisedec
cảm thấy thật buồn tẻ và khi cơn mưa tạnh hẳn và sự tĩnh lặng ngự trị trở lại,
nó quyết định bò ra thăm dò.
Nó biết chắc Sara không thể trở về nhà vào lúc đó
được nhưng nó vẫn cứ hít hít đánh hơi và cuối cùng cũng tìm được mẩu bánh vụn
còn sót lại từ bữa tối hôm qua. Nó không thể ngờ và cũng không giải thích nổi tại
sao nó lại để sót mẩu bánh ngon đến thế.
Ngay lúc đó nó bị cuốn hút bởi một âm
thanh lạ phát ra từ trên mái nhà và đang mỗi lúc một tiến lại gần phía cửa sổ
trên mái, rồi cánh cửa đó được bí mật mở ra và một khuôn mặt đen sạm nhòm vào
bên trong nhà và một khuôn mặt nữa ló ra từ phía sau. Cả hai đều nhòm vào bên
trong thận trọng nhưng thích thú. Hai người đàn ông đang lặng lẽ chuẩn bị trèo
vào trong phòng qua ô cửa sổ đó. Một người là Ram Das còn người kia là thư kí
ông chủ Ấn Độ.
Tất nhiên là Melchisedec không biết được điều đó mà chỉ biết rằng
hai người đó đã phá vỡ sự yên tĩnh và xâm nhập vào nơi riêng tư ấy. Nó sợ chết
khiếp, lỉnh ngay vào hang khi người đàn ông có khuôn mặt đen sạm chui xuỗng một
cách nhẹ nhàng khéo léo đến nỗi không gây ra một tiếng động nhỏ nào. Lâu nay nó
đã không còn hoảng sợ đối với Sara và nó cũng biết chắc rằng em sẽ chẳng bao giờ
ném cái gì đó làm đau nó ngoài những mẩu vụn bánh mì và em cũng chẳng bao giờ
gây ra tiếng động nào ngoài những lời nói dịu dàng và những tiếng huýt sáo nhè
nhẹ.
Đối với những người đàn ông xa lạ này thì thật chẳng an toàn chút nào để ở
gần lại họ. Nó quyết định rút lui về nằm ẹp ngay trước lối vào hang đủ để vẫn
quan sát được mọi việc với cặp mắt sáng đầy nghi ngờ. Chẳng ai có thể chắc chắn
rằng nó có thể hiểu được chút gì qua câu chuyện của hai người đàn ông đó không,
mà dù nó có thể hiểu hết đi chăng nữa thì nó vẫn có lý do để hoảng sợ.
Người thư kí, trẻ hơn và cũng nhẹ
nhàng, trèo vào phòng một cách khéo léo chẳng kém gì Ram Das và ông cũng đã
thoáng nhìn thấy cái đuôi của Melchisedec lúc nó đang rút lui. Ông thì thầm hỏi
Ram Das:
“Có phải chuột không?”
“Đúng đấy,”
Ram Das trả lời,
“Rất
nhiều chuột đằng sau bức tường này.”
“Thật ư? Cũng lạ là đứa trẻ không sợ
chuột.”
Ram Das vẫy tay làm một cử chỉ có vẻ
kính nể và tỏ ra thông thạo và rất hiểu rõ về Sara mặc dù mới nói chuyện với em
một lần duy nhất.
“ Đứa trẻ thực sự đã trở thành người
bạn nhỏ của muôn loài rồi, thưa ông,”
Ram Das trả lời.
“Nó chẳng giống như những
đứa trẻ khác đâu ạ. Tôi vẫn thường quan sát nó mà nó không nhìn thấy tôi. Nhiều
đêm tôi cứ bò lên mái nhà và nhìn xuống xem nó có được an toàn không. Tôi thường
thấy nó từ bên này mà nó không hề hay biết gì. Nó vẫn thường đứng trên bàn và
nhìn đau đáu lên trời cứ như là đấng cao xanh kia biết nói chuyện với nó vậy.
Lũ chim sẻ cũng kéo nhau đến mỗi khi nghe thấy con bé gọi chúng, và nó còn nuôi
và dạy dỗ lũ chuột nữa chứ. Cũng còn một đứa trẻ khốn khổ nữa vẫn thường đến với
nó để tìm kiếm sự an ủi động viên. Đứa bé đó phải làm việc như nô lệ ấy. Ngoài
ra còn có hai đứa nữa cũng hay bí mật đến với con bé; một đứa lớn hơn một chút
còn đứa kia nhỏ hơn. Cả hai đều rất ngưỡng mộ con bé và sẵn sàng nghe con bé kể
chuyện hàng giờ suốt đêm nếu có thể. Tất cả những cái đó tôi quan sát được qua
ô cửa này. Bà chủ của trường này đối xử với bé gái này chẳng khác gì nô lệ
nhưng nó mang trong người dòng máu hoàng tộc thì phải!”
“Anh có vẻ hiểu biết nhiều về con
bé này nhỉ?”
Người thư kí nhận xét.
“Tôi đã quan sát tất cả những gì xảy
ra trong ngày với nó,”
Ram Das nói.
“Tôi biết con bé bị sai đi ra
ngoài, khi nào nó về, những nỗi thống khổ nó phải chịu đựng, những niềm vui nho
nhỏ đáng thương mà nó cố tạo ra cho mình, và cả những khi nó bị giày vò bởi những
cơn đói khát rét mướt. Tôi còn biết cả khi những người bạn của cô bé lén lút đến
thăm cô bé, nó đã vui sướng như thế nào như biết bao đứa trẻ khác, được nói được
cười với bạn nhưng chỉ dám thầm thì mà thôi. Tôi cũng nghĩ rằng nếu như nó ốm
tôi cũng có thể biết được và sang chăm sóc nó.”
“Anh chắc rằng không ai đến gần căn
phòng này ngoài cô bé chứ và nó sẽ không về vào lúc này chứ. Nếu con bé phát hiện
ra chúng ta thì kế hoạch của ngài Carisford sẽ đổ bể hết.”
Ram Das rón rén đi lại phía cửa và
đứng lại đó nghe ngóng.
“Không ai leo lên đây ngoài con bé,
thưa ông. Nó đã xách giỏ ra ngoài chắc phải hàng giờ mới về. Tôi đứng đây canh
chừng để có thể nghe được tiếng bước chân ai đó trước khi họ đến chiếu nghỉ cuối
cùng của cầu thang”.
Người thư kí rút chiếc bút và cuốn
sổ nhỏ trong túi ngực ra và đi quanh căn phòng tồi tể một lượt và ghi chép gì
đó. Đầu tiên ông đến bên chiếc giường chật chội lấy tay ấn xuống và kêu lên:
“Cứng
như đá vậy. Chiếc giường này phải được thay gấm vào một hôm nào đó mà con bé có
việc phải ra ngoài. Chắc phải có cách nào đó mang chiếc giường vào căn phòng
này và có lẽ phải vào ban đêm.”
Ông nhấc tấm vải trải giường để lộ ra cái gối mỏng
dính rồi nói.
“Mọi thứ đều tồi tàn và bẩn thỉu quá mức, từ vải trải giường đến
chăn gối đều quá mỏng. Những thứ này mà có thể gọi là phòng ngủ cho một đứa trẻ
ở một ngôi nhà được coi là chăm sóc trẻ em ư? Không biết đã bao ngày rồi chiếc
lò sưởi han gỉ kia chưa từng được đốt lên.”
Người thư kí vừa nói vừa nhìn về
chiếc lò sưởi cũ rích nằm bẹp ở một xó.
“Tôi chưa từng nhìn thấy chiếc lò
sưởi đó được đốt bao giờ cả, bà chủ nhà không phải là loại người biết nghĩ đến
người khác, mà chỉ biết đến bà ta mà thôi.”
Người thư kí tiếp tục ghi chép vào
cuốn sổ nhỏ trên tay, đọc rồi lại xé tờ giấy gấp bỏ vào túi ngực, nói:
“ Thật
là một ý tưởng kỳ lạ. Ai là người đưa ra kế hoạch này vậy?”
Ram Das nhũn nhặn cúi đầu tỏ ý xin
thứ lỗi:
“Thư thật là ý tưởng ban đầu là của tôi, nó có vẻ không bình thường
nhưng hay hay. Tôi rất yêu mến đứa trẻ này; cả hai chúng tôi đều cô đơn mà. Con
bé thường hay thổ lộ những ước mơ của mình với những người bạn bí mật của nó. Một
hôm tôi cũng thấy buồn, nằm gần phía cửa sổ nên đã nghe được câu chuyện của con
bé. Nó ước căn phòng này trở nên ấm cúng, nó mô tả say sưa đến nỗi tôi có cảm
tưởng như nó đang nhìn thấy những gì nó đang nói ngay ở trước mắt và nó thường
xuyên cầu nguyện vậy. Một hôm ông chủ mệt mỏi và rất buồn rầu, tôi đem câu chuyện
của con bé ra kể, hy vọng làm cho ông khuây khỏa đôi chút và quả thực câu chuyện
về con bé đã tác động đến ông rất nhiều. Ông phấn chấn hẳn lên và hỏi rất nhiều
chuyện xung quanh nó và cuối cùng ông quyết định biến giấc mơ của con bé thành
hiện thực.”
“Anh có nghĩ là mình có thể thực hiện
việc này khi con bé đang ngủ không?”
Người thư kí gợi ý. Rõ ràng là ông cũng bị
hấp dẫn bởi ý tưởng đó chứ không phải chỉ để làm ngài Carisford vừa lòng.
“Tôi có thể di chuyển trên đôi chân
của tôi mà không gấy ra tiếng động nào cho dù là nhỏ nhất, cứ như là đôi chân
tôi được bọc bằng nhung vậy,”
Ram Das đáp lại.
“Mà trẻ con thường ngủ rất say kể
cả những đứa trẻ không hạnh phúc. Tôi có thể qua lại căn phòng này nhiều lần
trong đêm mà không hề làm con bé thức giắc, nếu như có ai đó chuyển cho tôi những
thứ cần đưa vào phòng này qua cửa sổ. Tôi đảm bảo sẽ làm được mà không đánh thức
con bé. Khi nó tỉnh dậy nó sẽ tin đây là một Phép Mầu Nhiệm,”
Ram Das cười, dường
như trái tim nằm dưới chiếc áo trắng của ông cũng ấm lên với ý nghĩ đó và người
thư kí cũng cười thanh thản nói:
“Kế hoạch của chúng ta cứ như là trong truyện
‘Những người Ả Rập’ ấy. Đúng là chỉ có những người phương đông các anh mới nghĩ
ra được những trò này chứ không phải một người Luân Đôn nào đó.”
Thật may mắn cho Melchisedec vì họ
đã không ở trong phòng lâu. Mặc dù nó không hiểu gì về câu chuyện của họ nhưng
những cử chỉ và những lời thì thầm của họ báo trước một điềm gì đó. Người thư
kí trẻ có vẻ thích thú với kế hoạch trên, ông liệt kê những việc cần làm đối với
sàn nhà, lò sưởi, chiếc ghế gãy và chiếc bàn cũ kĩ và nhất là đối với các bức
tường đang tróc lở. Ông có vẻ hài lòng khi sờ tay vào tường lần nữa và phát hiện
ra tường có rất nhiều đinh và nói:
“Ông có thể treo rất nhiều thứ lên
những chiếc đinh này,”
Ram Das cười bí ẩn.
“Hôm qua, lúc con bé đi ra ngoài,
tôi đã sang và gắn những chiếc đinh vào tường mà không cần dùng đến búa. Tôi đã
gắn vào những chỗ mà tôi có thể cần đến, chúng đã có sẵn ở đấy rồi.”
Người thư kí lặng nhìn xung quanh một
làn nữa rồi cất cuốn sổ vào túi ngực.
“Tôi đã ghi chép đầy đủ rồi và
chúng ta có thể rút lui. Ngài Carisford đúng là có một trái tim nhân hậu. Ông
còn đau khổ chừng nào chưa tìm được đứa trẻ thật lạc,”
Người thư kí nói.
“Chỉ khi nào ông ấy tìm được đứa trẻ
thì ông ấy mới bình phục được,”
Ram Das nói.
“Biết đâu Chúa lại mang đứa trẻ lại
cho ông ấy.”
Sau đó hai người chui qua cửa sổ trở
về và cũng chẳng gây ra tiếng đọng nào như lúc họ đến vậy.
Sau khi đã chắc chắn là những người
lạ mặt đã đi khỏi và cảm thấy an toàn Melchisedec mơi chui ra khỏi nơi ẩn nấu của
mình, hít, hít đánh hơi lấy hi vọng những người đáng ngại đó biết đâu chẳng làm
rơi vài mẩu vụn bánh trên sàn.
truyenhoangdung.blogspot.com
No comments
Post a Comment