CHƯƠNG 15 - KHI LỖI THUỘC VỀ NHỮNG VÌ SAO - TIỂU THUYẾT THẾ GIỚI

KHI LỖI THUỘC VỀ NHỮNG VÌ SAO

Tác giả: John Green
Thể loại: Tiểu thuyết phương Tây

CHƯƠNG 15:  


Tôi thức dậy lúc bốn giờ mà theo múi giờ Hà Lan thì trời đã hửng sáng. Mọi nỗ lực để ngủ trở lại đều không thành, vì vậy tôi nằm trên giường trong khi máy thở BiPAP cứ liên tục hết bơm không khí vào lại rút khí thải ra. Tuy tôi thích nghe âm thanh tựa như một chú rồng đang thở phát ra từ chiếc máy nhưng tôi vẫn ước mình có thể chủ động chọn nhịp thở cho chính mình.


Tôi lấy cuốn Nỗi đau tột cùng ra đọc lại cho đến khi Mẹ tỉnh dậy lúc sáu giờ sáng. Bà lăn qua phía tôi đang nằm và rúc đầu vào vai tôi, khiến tôi chợt thấy khó chịu và mơ hồ nhớ cảm giác Augustinô.



Nhân viên khách sạn phục vụ bữa sáng tận phòng cho chúng tôi, một thực đơn thật hợp ý tôi vói các món thịt được chế biến công phu và hoàn toàn ‘nói không’ với công thức quen thuộc của bữa sáng kiểu Mỹ. Chiếc váy tôi định mặc đến gặp Peter Van Houten đã được ‘đặc cách’ lên trình làng trong bữa ăn tối lãng mạn ở Oranjee. Vì vậy sau khi tôi tắm táp và rũ thẳng tóc, tôi mất đứt ba mươi phút tranh luận với Mẹ về những ưu - khuyết điểm của những bộ trang phục mang theo trước khi quyết định diện giống Anna trong Nỗi đau tột cùng, càng giống càng tốt: một đôi giày đế mềm hiệu Chuck Taylor cùng quần jean sậm màu như bạn ấy luôn mặc, và một áo T-shirt màu xanh lơ.



Trên chiếc áo in một tác phẩm Siêu thực nổi tiếng của René Magritte, tron đó ông đã vẽ một tẩu thuốc kèm dòng ghi chú bên dưới được viết theo kiểu chữ thảo Ceci n'est pas une pipe. (“Đây không phải là một tẩu thuốc.”)



Mẹ nói: “Mẹ thật không hiểu cái hình trên áo.”



“Ông Peter Van Houten sẽ hiểu nó, Mẹ tin con đi. Có đến khoảng bảy ngàn ẩn dụ kiểu Magritte trong siêu phẩm Nỗi đau tột cùng mà.”



“Nhưng nó là một tẩu thuốc.”



“Không, không phải,” tôi nói. “Đó là hình vẽ của một tẩu thuốc. Mẹ hiểu không, mọi hình ảnh đại diện cho một vật nào đó vốn đều trừu tượng. Lập luận này thật thông minh.”



“Sao mà con lớn nhanh như thổi và hiểu được những điều mà người mẹ cổ lỗ sĩ của con thấy khó hiểu nhỉ?”



Mẹ thắc mắc. “Với Mẹ vẫn mới như ngày hôm qua, khi còn giải thích cho bé Hazel bảy tuổi tại sao bầu trời lại có màu xanh. Chắc hẳn khi đó con nghĩ Mẹ là một thiên tài ha!”



“Tại sao bầu trời lại màu xanh vậy Mẹ?” Tôi hỏi.



“Bởi vì...” bà dài giọng. Tôi phá lên cười nắc nẻ.



Càng gần đến mười giờ, tôi càng hồi hộp lo lắng: hồi hộp vì sắp gặp anh Augustus; hồi hộp vì sắp gặp Peter Van Houten; lo lắng rằng bộ trang phục tôi đang mặc không bắt mắt; lo lắng rằng chúng tôi sẽ không tìm đúng nhà ông văn sĩ vì mọi ngôi nhà ở Amsterdam trông khá giống nhau; lo lắng rằng chúng tôi sẽ bị lạc và không bao giờ tìm được đường về Khách sạn Filosoof; hồi hộp lo lắng, lo lắng hồi hộp. Mẹ cố gắng trò chuyện với tôi nhưng thực sự tôi không để tâm lắng nghe. Tôi vừa định nhờ Mẹ đi lên lầu trên xem anh Augustus đã thức chưa thì nghe tiếng anh gõ cửa phòng.



Tôi ra mở cửa. Anh nhìn chiếc áo và mỉm cười. “Buồn cười quá!” Anh nhận xét.



“Đừng nói ngực em buồn cười,” tôi hờn mắt.



“Có người lớn ở đây nha,” Mẹ nhắc nhở từ phía sau. Vì tôi đã làm Augustus đỏ mặt và kéo anh khỏi trò chòng ghẹo của anh, nên cuối cùng tôi đủ can đảm liếc nhìn lên anh.



“Thật sự Mẹ không muốn đi cùng tụi con à?” Tôi hỏi Mẹ.



“Mẹ sẽ tham quan Bảo tàng Rijksmuseum và Công viên Vondelpark hôm nay,” bà sôi nổi nói. “Thêm nữa là Mẹ chẳng mê tác phẩm của ông ấy. Không có ý xúc phạm gì thần tượng của con đâu nhé. Nhớ gửi lời cảm ơn của chúng ta đến ông ấy và cô Lidewij nhé!”



“Dạ được,” tôi đáp. Tôi ôm Mẹ, và bà âu yếm hôn phía trên vành tai tôi.



Khu nhà trắng nơi Peter Van Houten nằm ở ngay góc ngã tư cùng dãy phố với khách sạn, trên đường Vondelstraat, đối diện với công viên. Nhà số 158. Một tay anh Augustus cẩm hộ giá ô-xy, tay còn lại anh dắt tôi bước ba bước về phía cánh cửa sơn màu xanh - đen. Tim tôi đập thình thịch. Chỉ còn cách một cánh cửa nữa thôi tôi sẽ có được câu trả lời mà mình luôn ao ước được biết kể từ lần đầu tiên đọc trang cuối cùng dở dang của tác phẩm này.



Tôi có thể nghe thấy tiếng bass ầm ầm bên trong, lớn đến nỗi mấy bệ cửa sổ cũng phải rung chuyển. Không biết Peter Van Houten có con nhỏ thích nghe nhạc rap hay không?



Tôi nắm lấy vòng sắc gõ cửa hình đầu sư tử và ngập ngừng đạp vào cửa. Tiếng bass vẫn vọng ra từ bên trong. “Có lẽ ông ấy không nghe thấy giữa tiếng nhạc chói tai này đâu,” Augustus nói. Anh nắm lấy cái vòng sắt và động cửa mạnh hơn.



Tiếng nhạc tắt hẳn, thay vào đó là tiếng chân lê bước ra cửa. Tiếng mở chốt cửa. Thêm một chốt khác. Rồi cánh cửa cọt kẹt hé mở. Một người đàn ông bụng phệ, tóc lưa thưa, gò má xệ, và bộ râu lún phún chắc một tuần chưa cạo bước ra, nheo mắt trước ánh sáng mặt trời. Ông ta mặc bộ đồ ngủ màu lam nhạt, giống như mấy ông già trong khi hai cánh tay thì khẳng khiu, nên trông ông ta giống như một quả bóng với bốn cái que xiên vào nó. “Chú Van Houten phải không ạ?” anh Augustus cất tiếng hỏi, giọng anh hơi cao hơn bình thường.



Cánh cửa đóng sầm một phát. Phía sau cửa, một chất giọng the thé hét lên, ngắt quãng, “LEEE-DUH-VIGH!” (Trước đó, tôi toàn phát âm tên chị trợ lý của ông ta là lid-uh-widge.)



Chúng tôi có thể nghe thấy cuộc đối thoại ở bên kia cánh cửa. “Họ đến rồi hả chú Peter?” Giọng người phụ nữ hỏi.



“Có — cô Lidewij này, có hai đứa thiếu niên ‘hiện hồn’ ở trước cửa.”



“Hiện hồn?” Chị hỏi lại bằng âm giọng Hà Lan thánh thót rất dễ thương.



Van Houten hấp tấp tuôn ra một tràng. “Là bóng ma, bóng quỷ, ma-cà-rồng, ma cà tưng, hồn ma bóng quế hiện về, Lidewij. Làm sao mà một con người đang học cao học về văn chương Mỹ như cô lại có thể sở hữu kỹ năng tiếng Anh tệ lậu như vậy hả?”



“Chú Peter, mấy em đó không phải là ma quỷ gì hết. Đó là Augustus và Hazel, những fan hâm mộ trẻ mà gần đây chú đã phúc đáp thư từ qua lại.”



“Chúng — cái gì? Chúng — tôi tưởng chúng nó đang ở Mỹ chứ!”



“Vâng, nhưng chú đã mời hai em ấy đên đây, chú nhớ không?”



“Cô có biết lý do tại sao tôi rời nước Mỹ không, cô Lidewij? Tôi đi để mà tôi không bao giờ gặp bọn người Mỹ nữa.”



“Nhưng chú là người Mỹ.”



“Một sự thật không thể sửa chữa được, có vẻ như thế. Nhưng đối với mấy đứa Mỹ này, cô phải bảo chúng nó rời khỏi đây ngay, rằng đó là một sai lầm khủng khiếp, rằng thằng cha Van Houten chết tiệt chỉ mời lơi thế thôi chứ không phải thật tâm muốn vậy, cho nên cần phải đọc và hiểu lời mới ấy một cách tượng trưng.”



Có vẻ như tôi suýt chút nữa là nôn mửa. Tôi nhìn qua phía Augustus, anh đang dán chặt mắt vào cánh cửa, và tôi thấy anh buông thõng hai vai.



“Cháu sẽ không làm vậy đâu, chú Peter,” tiếng chị Lidewij trả lời. “Chú phải gặp họ. chú phải làm như vậy. Chú cần gặp gỡ hai em ấy. Chú cần thấy công việc viết lách của chú có sức ảnh hưởng như thế nào.”



“Cô Lidewij, có phải cô cố tình qua mặt tôi để sắp xếp chuyện này không?”



Một sự im lặng kéo dài, và cuối cùng cánh cửa lại mở ra lần nữa. Người đàn ông hết nhìn anh Augustus lại quay đầu nhìn sang tôi, mắt vẫn nheo nheo. “Ai trong hai cô cậu là Augustus Waters?” ông ta hỏi. Anh Augustus ngập ngừng giơ tay. Van Houten gật đầu và nói tiếp, “Thế cậu đã ‘cưa đổ’ cô nàng đó chưa?”



Và lần đầu tiên và duy nhất tôi chứng kiến một Augustus Waters thực sự không nói nên lời. “Cháu,” anh ngắc ngứ, “ừm, cháu, Hazel, ừm. À.”



“Cậu bé này dường như bị một chứng bệnh chậm phát triển nào đó,” Peter Van Houten kết luận với Lidewij.



“Chú Peter,” chị mắng ông.



“À,” Peter Van Houten vừa nói vừa chìa tay về phía tôi. “Dù sao thì cũng rất vui khi được gặp những sinh vật không thể tồn tại về mặt bản thể.” Tôi bắt tay ông ta — một bàn tay sưng húp, và nhìn ông ta bắt tay với anh Augustus. Tôi đã tự hỏi về mặt bản thể nghĩa là gì. Dù sao, tôi cũng thích thuật ngữ này. Anh Augustus và tôi đều thuộc Câu lạc bộ Những sinh vật Không thể tồn tại gồm chúng tôi và bọn thú mỏ vịt.



Tất nhiên, tôi đã hy vọng rằng Peter Van Houten là một người ôn hòa mực thước, nhưng quả thật thế giới này không phải là một công xưởng sản xuất điều ước. Điều quan trọng là cánh cửa đã được mở và tôi đã bước qua ngưỡng cửa đó, vào bên trong để tìm hiểu những chuyện xảy ra sau khi kết thúc truyện Nỗi đau tột cùng. Vậy là đủ. Chúng tôi đi theo ông ta và chị Lidewij vào trong nhà, băng qua một bàn ăn bằng gỗ sồi khổng lồ với chỏng chơ hai chiếc ghế, để vào một phòng khách lạnh lẽo đến gợn tóc gáy.



Nó trông giống một bảo tàng, nhưng chẳng có tranh ảnh nghệ thuật nào trên những bức tường trắng toát. Ngoại trừ một chiếc ghế xô-pha và một chiếc ghế nệm dài, đều bằng thép bọc da màu đen, căn phòng dường như trống rỗng. Thế rồi tôi để ý thấy phía sau ghế xô-pha có hai túi rác lớn màu đen, căng phồng và buộc xoắn ở miệng túi.



“Rác à?” Tôi thì thầm với anh Augustus, giọng thẽ thọt đủ để không ai khác nghe thấy.



“Thư của fan hâm mộ,” Van Houten trả lời khi ông ra ngồi phịch xuống ghế nệm. “Mười tám năm được ngần đấy. Không thể mở ra. Đáng sợ lắm. Thư của cô cậu là những bức thư đầu tiên mà tôi đã trả lời, và hãy nhìn xem kết quả thế nào đây. Thành thật mà nói tôi thấy hành động của các độc giả hoàn toàn chẳng hay ho tí nào.”



Điều đó lý giải tại sao ông ra không bao giờ trả lời thư của tôi: Ông ra chưa bao giờ đọc qua chúng. Tôi tự hỏi tại sao ông ta giữ tất cả thư từ lại, chưa nói đến việc cất chúng trong một căn phòng khách trang trọng dù trống toác thế này. Van Houten ‘thượng’ hai bàn chân lên chiếc ghế đệm thấp, đôi dép lê bắt chéo nhau. Ông ta ra hiệu về phía chiếc ghế nệm dài. Anh Augustus và tôi ngồi xuống cạnh nhau, nhưng không quá sát nhau.



“Hai em ăn sáng chút gì nhé?” Chị Lidewij mời.



Tôi định trả lời là chúng tôi đã ăn sáng rồi thì Van Houten chen ngang. “Còn quá sớm để nghĩ đến chuyện ăn sáng, cô Lidewij.”



“Ồ, hai em đến từ nước Mỹ, chú Peter à. Nên lúc này đã quá giờ trưa đối với bụng của hai em ấy rồi.”



“Vậy thì lúc này cũng quá trễ để ăn sáng rồi,” ông ta tiếp tục. “Tuy nhiên, đã quá giờ trưa thì sao chúng ta không thưởng thức rượu hoa quả nhỉ. Cô bé có uống rượu Scotch không?” Ông ta hỏi tôi.



“Cháu á — ừm, không, cháu không cần uống gì đâu,” tôi đáp.



“Cậu Augustus Waters?” Van Houten hỏi, hất đầu về phía Gus.



“Ừm, cháu cũng không cần.”



“Vậy thì chỉ có mình tôi thôi, cô Lidewij. Rượu Scotch và nước nhé.” Van Houten chuyển sự chú ý của mình sang Gus, ông ta hỏi: “Cậu có biết cách chúng tôi pha rượu Scotch với nước trong ngôi nhà này không?”



“Không, thưa chú,” Gus trả lời.



“Chúng tôi đổ rượu Scotch vào ly và sau đó suy nghĩ đến nước trong tâm tưởng, thế rồi chúng tôi hòa rượu Scotch trên thực tế với ý nghĩa trừu tượng về nước.”



Lidewij nói: “Có lẽ đầu tiên nên ăn sáng một ít, chú Peter.”



Ông nhìn về phía chúng tôi và thì thào từng chữ, “Cô ấy nghĩ rằng tôi nghiện rượu.”



“Và tôi nghĩ rằng mặt trời đã lên cao,” Lidewij đáp lời. Tuy nhiên, chị vẫn bước đến quầy rượu trong phòng khách với tay lấy một chai Scotch, và rót lấy một nửa ly rồi mang nó đến cho ông ta. Peter Van Houten nhấp một ngụm, sau đó ngồi thẳng dậy trên ghế. “Rượu ngon thế này phải uống với tư thế chuẩn nhất,” ông ta nói.



Tôi chợt ý thức về tư thế ngồi của mình và hơi thẳng lưng lên một chút trên chiếc ghế nệm dài. Tôi sắp xếp lại dây nhợ của mình. Ba luôn luôn nói với tôi là chúng ta có thể đánh giá một người qua cách họ đối xử với trợ lý và người phục vụ bàn. Theo cách đó thì Peter Van Houten có thể là kẻ xấu xa đê tiện nhất trần đời. “Vậy là cậu thích cuốn sách của tôi,” ông ta nói với Augustus sau khi nhấp một ngụm rượu nữa.



“Dạ,” tôi hào hứng đáp thay anh Augustus. “Dạ vâng, chúng cháu — à, anh Augustus đây đã quyết định Điều Ước của mình là được đến đây gặp chú và nghe chú tiết lộ cho tụi cháu biết chuyện gì xảy ra sau khi kết thúc cuốn Nỗi đau tột cùng.”



Van Houten không nói gì, chỉ cầm lấy ly rượu nốc một hơi.



Sau một phút, anh Augustus lên tiếng, “Cuốn sách của chú có thể xem là đã đưa chúng cháu đến với nhau.”



“Nhưng cô cậu không đến với nhau,” ông ta buông lời nhận xét mà chẳng buồn liếc nhìn tôi.



“Nó đã đưa chúng cháu gần đến với nhau,” tôi chỉnh lại.



Giờ thì ông ta quay sang tôi. “Cô đã cố tình ăn mặc giống như con bé phải không?”



“Bạn Anna ạ?” Tôi hỏi.



Ông ta chỉ nhìn tôi chằm chặp.



“Phần nào,” tôi nói.



Ông ta lại nốc một hơi nữa, sau đó nhăn mặt. “Tôi không có nghiện rượu,” ông ta tuyên bố, bất chợt to tiếng một cách không cần thiết. “Tôi có một mối quan hệ thiết với rượu: Tôi có thể kể chuyện cười, cai trị nước Anh và làm bất cứ điều gì tôi muốn làm. Ngoại trừ chuyện cai rượu.” Ông ta liếc nhìn chị Lidewij và hất đầu về phía ly của mình. Chị cầm lấy nó quay về quầy rượu. “Nhớ nghĩ đến nước nhé, cô Lidewij,” ông ta hướng dẫn.



“Vâng ạ, biết rồi khổ lắm nói mãi!” Chị đáp, phát âm lơ lớ giọng Mỹ.



Ly rượu thứ hai đã tới. Van Houten lại duỗi cột sống lần nữa với tất cả lòng tôn sùng rượu. Ông ta tuột đôi dép ra, để lộ hai bàn chân thực sự xấu xí. Ông ta mỗi lúc một phá hỏng hình tượng thiên tài viết lách trong mắt tôi. Nhưng ông ta có câu trả lời cho những câu hỏi của tôi.



“À, ừm,” tôi nói, “đầu tiên, chúng cháu muốn cảm ơn chú đã mời bữa tối đêm qua và —”



“Chúng ta đã trả tiền bữa ăn tối qua à?” Van Houten hỏi chị Lidewij.



“Vâng, tại Oranjee.”



“À, thế à. Ừ, tin tôi đi, người cô cậu phải cảm ơn không phải là tôi mà là cô Lidewij, người đặc biệt có khiếu trong việc xài tiền của tôi.”



“Đó là tấm lòng của chúng tôi,” chị Lidewij từ tốn.



“Vâng, dù sao đi nữa cũng xin cảm ơn,” anh Augustus chen vào. Tôi có thể nghe giọng anh thoáng qua chút bực bội.



“Vậy giờ có tôi đây,” Van Houten nói sau một lúc. “Cô cậu muốn hỏi gì?”



“Ừm,” Augustus bật thốt.



“Anh chàng này dường như có ngòi bút sắc sảo hơn là lời nói,” Van Houten nói với chị Lidewij về Augustus. “Có lẽ căn bệnh ung thư đã tấn công vào não cậu ta.”



“Chú Peter,” Lidewij thốt lên, giọng thoáng chút kinh hãi.



Tôi cũng giật bắn mình. Nhưng có một sự thật dễ chịu là một người ti tiện hèn hạ như thế luôn bất lịch sự trước tất cả mọi người, với chúng tôi cũng sẽ chẳng tử tế gì hơn. “Thật ra chúng cháu có một số câu hỏi,” tôi nói. “Cháu đã liệt kê chúng trong email gửi chú, không biết chú còn nhớ không.”



“Tôi chẳng nhớ gì sất.”



“Trí nhớ của chú ấy đã giảm sút,” chị Lidewij giải thích.



“Phải chi mà trí nhớ của tôi giảm sút,” Van Houten vặc lại.



“Trở lại câu hỏi của chúng cháu,” tôi nhắc lại.



“Cô bé tự xưng là ‘chúng cháu’ kìa,” Peter nói bâng quơ. Thêm một ngụm rượu. Tôi không biết rượu Scotch có vị như thế nào, nhưng nếu nó có vị giống sâm-banh thì tôi không thể hình dung làm thế nào ông ta có thể uống quá nhiều, quá nhanh, và quá sớm vào buổi sáng như vậy. “Cô bé có từng nghe qua ‘Ngịch lý của Zeno về Achilles và con rùa’ chưa?” Ông ta hỏi tôi.



“Chúng cháu có một số thắc mắc xoay quanh những chuyện đã xảy ra với các nhân vật sau khi kết thúc truyện, nhất là Anna —”



“Cô bé nhầm ở chỗ tôi cần phải nghe câu hỏi trước rồi mới trả lời. Cháu có biết triết gia Zeno không?” Tôi ngơ ngác lắc đầu. “Trời ơi! Zeno là một nhà triết học trước thời Socrates, người đã phát hiện ra bốn mươi nghịch lý trong thế giới quan của Parmenides đưa ra trước đó — chắc chắn cháu phải biết Parmenides rồi,” ông ta nói chắc nịch, và tôi gật đầu xác nhận rằng tôi biết Parmenides, mặc dù tôi chẳng có chút ý niệm nào về vị này. “Tạ ơn Chúa,” ông ta nói tiếp. “Zeno đặc biệt chuyên chỉ ra những điểm không chính xác và quá đơn giản hóa vấn đề của Parmenides, một việc không mấy khó khăn, vì Parmenides luôn sai be bét trong mọi nhận định. Parmenides chỉ hữu dụng trong đúng một trường hợp duy nhất khi chúng ta có một người quen luôn chọn sai ngựa chiến mỗi dịp chúng ta đưa anh chàng này đến trường đua và cá cược với hắn. Nhưng phát hiện quan trọng nhất của Zero — khoan đã, hãy chứng minh cho tôi thấy rằng cô cậu biết nhạc hip-hop của Thụy Điển nào.”



Tôi không chắc liệu có phải Peter Van Houten đang nói đùa không. Sau một lúc, anh Augustus trả lời thay tôi. “Chỉ biết chút chút!”



“Được rồi, nhưng có lẽ có biết đến album trứ danh Fläcken của Afasi och Filthy.”



“Chúng cháu không biết,” tôi đáp thay cho cả hai.



“Lidewij, bật bản ‘Bomfalleralla’ ngay cho tôi.” Chị Lidewij đi đến bên một máy nghe nhạc MP3, hơi xoay trục đĩa một chút rồi nhấn nút phát. Một bài nhạc rap nổi lên dồn dập từ mọi hướng. Nó nghe như một bài rap khá bình thường, ngoại trừ phần ca từ bằng tiếng Thụy Điển.



Sau khi bài nhạc kết thúc, Peter Van Houten nhìn chúng tôi chờ đợi, cặp mắt ti hí của ông ta mở to hết cỡ. “Hay không?” ông ta hỏi. “Hay không?”



Tôi nói, “Cháu xin lỗi chú, nhưng chúng cháu không biết tiếng Thụy Điển.”



“Chậc, tất nhiên là không rồi, tôi cũng chẳng biết một chữ bẻ đôi. Ai điên mà đi học tiếng Thụy Điển chứ!? Điều quan trọng không phải nằm ở chỗ mấy ca từ vớ vẩn ấy đang nói gì, mà chính là ta cảm thụ lời bài hát ra sao. Chắc hẳn cháu cũng biết rằng chỉ có hai cảm xúc tồn tại thôi, đó là tình yêu và sự sợ hãi. Và đó là cách Afasi och Filthy lèo lái giữa hai cảm xúc này bằng một phương tiện mà chúng ta khó tìm thấy trong nhạc hip-hop bên ngoài biên giới Thụy Điển. Cô bé có muốn nghe lại lần nữa không?”



“Chắc chú đang đùa với tụi cháu!” Gus nói.



“Gì cơ?”



“Đây là kiểu nói chuyện của chú ấy à?” anh hướng mắt nhìn lên Lidewij và hỏi, “Chị?”



“Chị e là không,” Lidewij trả lời. “Chú ấy không phải lúc nào cũng — hôm nay quá bất thường —”



“Thôi, cô im ngay, cô Lidewij. Rudolf Otto từng nói nếu ta chưa từng gặp một điều gì bí ẩn, nếu chưa từng trải qua một sự kiện mà ta không thể lý giải được, thì công trình nghiên cứu của ông không dành cho ta. Và tôi xin thưa với cô cậu, hai người bạn trẻ, rằng nếu cô cậu đây không thể nghe thấy phản ứng can đảm của Afasi och Filthy trước nỗi sợ hãi, thì tác phẩm của tôi không dành cho hai người.”



Tôi xin nhấn mạnh điều này: Đó là một bài rap hoàn toàn bình thường, trừ chuyện bằng tiếng Thụy Điển. “Ừm,” tôi nói. “Vậy về tác phẩm Nỗi đau tột cùng. Mẹ của Anna khi kết thúc truyện, bà đang —”



Van Houten ngắt lời tôi, vừa nói vừa gõ ngón tay vào ly rượu cho đến khi chị Lidewij rót đầy lần nữa. “Vậy Zeno nổi tiếng nhất nhờ nghịch lý con rùa của ông. Hãy tưởng tượng rằng cô bé đang chạy đua cùng một chú rùa, trong đó cô chấp rùa chạy trước mười thước. Trong khoảng thời gian cô bé chạy hết mười thước đó thì chú rùa đã dẫn trước thêm khoảng một thước. Và trong thời gian cô chạy thêm một thước thì chú rùa cũng đồng thời lết thêm được một đoạn. Cứ như thế, dù cô bé có chạy nhanh hơn rùa thì cũng không bao giờ có thể bắt kịp chú; cô bé chỉ có thể rút ngắn khoảng cách giữa mình và rùa thôi.”



“Tất nhiên, cô bé có thể chạy vượt mặt chú rùa mà không suy ngẫm về khía cạnh cơ học liên quan, nhưng bài toán làm thế nào để có thể đạt được điều đó hóa ra lại vô cùng phức tạp. Và không có ai thực sự giải quyết được bài toán này cho đến khi Cantor chứng minh cho chúng ta thấy rằng có những tập hợp số vô hạn lớn hơn những tập hợp số vô hạn khác.”



“Dạ,” tôi nói.



“Tôi cho rằng những gì tôi vừa trao đổi đã trả lời cho câu hỏi của cô bé,” ông ta tự tin nói, sau đó sảng khoái nốc một ngụm rượu rõ to.



“Không hẳn thế,” tôi vẫn lì lợm. “Tụi cháu đều tự hỏi là sau đoạn kết của Nỗi đau tột cùng —”



“Tôi phủ nhận tất cả mọi thứ trong cuốn tiểu thuyết thối tha đó,” Van Houten cắt ngang lời tôi.



“Không,” tôi kêu lên.



“Gì chứ?”



“Không, cháu không chấp nhận,” tôi phản đối. “Cháu hiểu rằng câu chuyện kết thúc lưng chừng vì Anna qua đời hoặc quá ốm yếu không thể tiếp tục kể chuyện. Nhưng chú đã hứa sẽ nói cho chúng cháu biết những gì sẽ xảy ra với các nhân vật, và đó là lý do tại sao chúng cháu ở đây. Chúng cháu, cháu cần chú nói cho cháu biết.”



Van Houten thở dài. Lại tợp một ngụm nữa rồi ông ra mới khề khà, “Được rồi, cô bé muốn biết chuyện của ai?”



“Mẹ của Anna, chú Tulip Hà Lan, chú Chuột hamster Sisyphus, tức là — những chuyện sau đó của tất cả mọi người.”


Van Houten nhắm mắt lại, phồng má thở hắt ra, rồi ngước lên nhìn thanh rầm gỗ đan chéo nhau trên trần nhà. “Con chuột hamster đó,” ông ta thủng thẳng nói sau một lúc trầm ngâm. “Chú chuột được Christine nhận nuôi,” đó là một trong số bạn bè cũ của Anna hồi trước khi bạn ấy phát bệnh. Cũng có lý. Christine và Anna đã cùng chơi với Sisyphus trong một vài đoạn của truyện. “Chú được Christine mang về nuôi và sống thêm một vài năm sau đó rồi chết thanh thản trong giấc ngủ thiên thu của loài chuột.”

truyenhoangdung.blogspot.com

No comments

Powered by Blogger.