TRẠI HOA VÀNG - CHƯƠNG 17 - NGUYỄN NHẬT ÁNH - TRUYỆN THIẾU NHI
TRẠI HOA VÀNG
Tác giả : Nguyễn Nhật Ánh
Thể loại: Truyện Thiếu Nhi, truyện teen
CHƯƠNG 17:
Từ khi "gài" thằng Cường
làm "gián điệp", tôi gặp Cẩm Phô dài dài.
Cường vẫn nói chuyện với Cẩm Phô bằng
ngôn ngữ của.... những ngón tay nhưng sau tai họa tày đình kia, nó không còn
dám lạm dụng thứ ngôn ngữ bí hiểm này vào những mục đích bừa bãi nữa. Cường
thôi chỉ trỏ lung tung. Bây giờ, những ngón tay đầy cấu ghét của nó chỉ đóng
vai trò của những chiếc kim đồng hồ: ngón trỏ là một giờ, ngón trỏ giữa là hai
giờ, ngón trỏ đưa lên ngón giữa gập xuống là một giờ rưỡi...
Dĩ nhiên không phải lúc nào Cẩm Phô
cũng hoan hỉ đáp lại lời hẹn hò của tôi. Những lúc bận chuyện gì không đi được,
nó trả lời bằng cách đưa tay lên vuốt tóc. Cẩm Phô dặn tôi như vậy.
Bữa nào Cẩm Phô vuốt tóc, Cường hộc
tốc đến nhà tôi.
- Hỏng bét rồi!
- Có chuyện gì vậy?
- Bữa nay nó lại rờ đầu!
Thứ văn chương "thô thiển"
của Cường bao giờ cũng khiến tôi nhăn mặt:
- Nó vuốt tóc thì bảo nó vuốt tóc,
mày cứ nói rờ đầu nghe thấy ghê!
- Ghê gì đâu?
Tôi hừ mũi:
- Nghe cứ như thể đầu nó toàn là ghẻ
chốc!
- Chứ gì nữa!
Cường nham nhở
-
Chính nó lây cho thằng Phú ghẻ nhà mình...
Tôi dậm chân dậm cẳng, không đợi Cường
nói hết câu:
- Mày có xéo ngay đi không!
Thấy tôi phùng mang trợn mắt, Cường
rụt cổ, lảng mất. Nhưng vài ngày sau nó lại mò đến, cười toe toét:
- Ngon lành! Bữa nay bật ngón tay
xong, tao liếc chừng cả buổi, chẳng thấy nó rờ đầu rờ cổ miếng nào!
Hào hứng với thành quả vừa đạt được,
Cường quên béng mất giữa "vuốt tóc" và "rờ đầu" từ nào nghe
văn hoa thơ mộng hơn từ nào. Nó cứ thuận miệng tuôn ra ào ào. Tôi lại nhăn mặt,
nhưng những lần sau này tôi chẳng thèm cự nự nó. Cự nó, nó lại phịa chuyện Cẩm
Phô có ghẻ, tôi càng lộn tiết thêm.
Thật ra trong mười lần tôi rủ Cẩm
Phô đi ăn chè, nó chỉ vuốt tóc với tôi khoảng hai lần. Tám lần khác nó đều y hẹn.
Tôi đến quán bà Thường ngồi đợi chừng mười phút là thấy nó xuất hiện. Như vậy
là thằng Phú ghẻ nói đúng. Cẩm Phô thương tôi chứ đâu có thù tôi. Thằng Phú ghẻ
ngứa này mà đi làm thầy bói chắc là giàu sụ!
Nhưng mặc dù thương tôi không để
đâu cho hết, mặc dù những buổi trưa trong vườn bà Thường yên tĩnh và cực kỳ thơ
mộng, Cẩm Phô vẫn không chịu ngồi gần tôi. Lần nào nó cũng ngồi vào chiếc ghế đối
diện, bất chấp việc trước đó tôi đã khéo léo bố trí hai ly chè nằm sát về phía
tôi và hoàn toàn xa cách tầm tay nó. Chiếc ghế chết tiệt đó ngăn cách với tôi bởi
chiếc bàn cũng chết tiệt không kém, lần trước tôi rải đầy lá khô, Cẩm Phô còn
không ngán, huống chi bây giờ tôi chẳng dám ngo ngoe.
Bao giờ cũng vậy, mỗi lần Cẩm Phô
chuẩn bị an tọa trên chiếc ghế khốn kiếp đó, tôi đều mở thao láo mắt ra nhìn nó
và ấm ức tự nhủ người xưa bảo "nam nữ thọ thọ bất thân", ông cố tôi
và bà cố Cẩm Phô nếu ngồi ăn chè với nhau chắc cũng ngồi cách xa như vậy, thậm
chí nếu không có bàn có khi phải chạy đi mượn cái bàn của ai đó đặt vô giữa,
nhưng đó là người xưa, còn Cẩm Phô là cháu chắt xa lắc xa lơ của các vị, là người
đời nay, sao nó cũng bày đặt "thọ thọ" với tôi?
Nhưng dù sao tôi cũng chẳng lấy làm
buồn cho lắm về chuyện đó. Bởi khi Cẩm Phô đưa mắt nhìn tôi và cái giọng êm ái
của nó vừa cất lên là bao nhiêu bực dọc trong lòng tôi lập tức bay biến.
Chè bà Thường đã ngọt, giọng Cẩm
Phô còn ngọt hơn. Tôi vốn là đứa hảo ngọt, dĩ nhiên cảm thấy cuộc sống trong
khoảnh khắc ấy sao mà đầy ắp ý nghĩa! Mặc dù nói cho đúng thì những cuộc trò
chuyện giữa hai đứa tôi trong quán bà Thường khó có thể gọi là "tình tứ".
Thường thường tôi nói:
- Khi nãy đi đường nắng không?
Cẩm Phô nói:
- Nắng.
- Đội nón mà nắng?
- Nón cũng nắng.
- Thôi ăn chè đi cho mát!
- Xí!
"Xí" xong tới phiên Cẩm
Phô hỏi tôi:
- Khi nãy anh đợi lâu không?
- Lâu.
- Mấy phút mà lâu?
- Mười phút.
- Mười phút mà lâu gì?
- Lâu chứ.
- Xí!
Sau khi "xí" thêm một tiếng
nữa, Cẩm Phô bưng ly chè lên. Chỉ đợi có vậy tôi hí hửng bưng theo.
Những cuộc đối thoại giữa hai người
"nhớ nhau muốn chết" đại khái chỉ có vậy, toàn những câu vớ vẩn, chẳng
đâu vào đâu và nhạt như nước ốc. Nhưng không hiểu sao, đối với tôi những chuyện
ấy lại rất đổi đậm đà, hấp dẫn và mê ly, nếu như Cẩm Phô không phải vội về nhà,
nếu như nó có thể ở luôn bên cạnh tôi kể từ giờ phút đó, tôi tin rằng tôi có thể
trò chuyện với nó quẩn quanh như vậy cho đến già mà không hề thấy chán.
Cẩm Phô có lẽ cũng cùng tâm trạng
như tôi. Nghĩa là nó cũng cảm thấy vui thích khi được ngồi bên tôi, nhìn thấy
tôi và nghe tôi nói. Còn tôi nói vung vít những gì chắc nó không mấy để ý.
Có nhiều lúc cuộc trò chuyện đột ngột
rơi vào im lặng mà chẳng ai hay. Chúng tôi lơ đãng ngắm con bọ ngựa đang dọ dẫm
trên cành lá thấp hoặc dõi theo cánh ong bay vù vù tìm mật giữa trưa. Không nói
một câu, sao tôi cảm thấy tôi và Cẩm Phô đang gần nhau quá thể.
Trong những ngày đẹp đẽ đó, tôi âm
thầm tích góp tiền bạc mua một cây đàn.
Hôm tôi ôm cây đàn về, nhỏ Châu trố
mắt:
- Anh mượn của ai vậy?
Tôi vênh mặt:
- Chẳng mượn của ai cả. Tao mua.
- Mua?
Nhỏ Châu như không tin vào
tai mình.
- Thì mua! Bộ mày lạ lắm sao?
Nhỏ Châu không đáp mà lại hỏi:
- Anh mua đàn làm gì?
Nhỏ Châu làm tôi điên tiết.
- Mua đàn là để đàn chứ để làm gì!
Tôi cau mặt
- Chẳng lẽ đại huynh của mày mua đàn về để... nấu cà-ri ?
- Nhưng anh đâu có biết đàn?
- Không biết thì học!
Tôi khịt
mũi
- Học đàn dễ ợt!
Để chứng minh "học đàn dễ ợt",
tôi lập tức triệu tập Phú ghẻ đến nhà.
Tôi dắt hắn ra sau vườn:
- Ngồi đó đợi tao chút!
Phú ghẻ quả là thằng bạn chẳng ra
gì. Tôi vừa quay lưng đi, nó đã giục:
- Lẹ lên! Tao đói bụng lắm rồi!
Tôi ngạc nhiên:
- Lẹ lên cái gì?
Phú ghẻ liếm môi:
- Thì đi lấy món gì mày định đãi
tao ấy!
Tôi phì cười:
- Món này ăn không được!
Một lát tôi ôm cây đàn ra.
Phú ghẻ nhìn sững cây đàn:
- Cho tao hả?
Tôi chìa cùi chỏ:
- Cho cái này nè.
- Vậy chứ mày xách đàn ra đây làm
gì?
Tôi dúi cây đàn vào tay nó mỉm cười:
- Tập tao đàn!
- Trời ơi là trời!
Phú ghẻ kêu lên một tiếng tuyệt vọng
và ngã lăn đùng ra bãi cỏ.
Nhìn nó giả chết biết nó muốn
"đòi hối lộ" tôi đành tặc lưỡi:
- Thôi để tao đi kiếm cho mày một ổ
bánh mì nhưng nạp năng lượng xong, mày phải tập cho tao đàng hoàng à nghen!
Kể từ bữa đó, mồm tôi lúc nào cũng
lảm nhảm "Đồ, rê mi fa xôn la xí đố rế", cứ như thể đọc thần chú. Nhỏ
Châu nhại tôi riết đến nỗi quen miệng, bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp nó
ngồi ngoài hè lảm nhảm giống như tôi.
Phú ghẻ chỉ dạy tôi có ba bữa đầu.
Đến khi thấy tôi có thể gảy "từng tứng tưng" một mình, nó thảy cho
tôi cuốn "Tự học ghi ta" và dăm tập nhạc rồi biến mất.
Chiều chiều tôi ôm đàn ra vườn, ngồi
bấm nhói cả tay. Tôi dòm vô sách, lui cui tập chuyển gam. Tôi bấm gam không quen,
gảy lên nghe "tạch tạch" như thể pháo lép.
Nhỏ Châu ngồi bên cạnh xem tôi tập,
với vẻ mặt tò mò của một khán giả đang ngồi coi khỉ tập đi xe trong rạp xiếc. Mỗi
lần cây đàn của tôi phát ra những âm thanh nghe nghèn nghẹt như một người viêm
mũi kinh niên, nó liền bụm miệng cười hí hí.
Nhưng tôi mặc nó. Tôi nghĩ đến câu
"Có công mài sắt, có ngày nên kim" và lại cúi mình trên thùng đàn gảy
"chách chách", mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
Sự kiên trì hiếm có của tôi có lẽ
khiến nhỏ Châu ngạc nhiên lắm. Nó không hiểu tại sao một kẻ vốn nổi tiếng làm
biếng trong việc học lẫn việc nhà như tôi lại siêng năng tập gảy đàn một cách đột
ngột như thế. Một hôm, nén không được thắc mắc:
- Tự dưng anh học đàn chi vậy ?
- Sao lại tự dưng?
Tôi quắc mắt
-
Hễ có bạn gái là phải biết chơi đàn, hiểu chưa đồ ngốc?
Nghe tôi mắng là "đồ ngốc",
nhỏ Châu lộ vẻ ngẩn ngơ. Chắc nó đang cố tìm hiểu xem giữa "chị hai"
của nó và cây đàn trên tay tôi có mối liên hệ bí ẩn như thế nào mà tôi nạt nộ
nó một cách hùng hồn như thế.
Trong khi nhỏ Châu đang nghĩ ngợi
mông lung, tôi chợt giật thót mình khi nhớ ra ba tôi và chú Sáu tôi đâu có biết
đàn địch hát xướng gì mà vẫn tán tỉnh được mẹ tôi và thím Sáu ngon ơ. Sợ nhỏ
Châu nhớ ra chuyện đó rồi vặn vẹo lôi thôi, tôi hắng giọng nói thêm:
- Khi mình thích một ai đó, trong
lòng mình có những cảm xúc không thể nói ra thành lời được, mình phải nhờ cây
đàn nói giùm mình, mày hiểu không?
- Không hiểu!
Nhỏ Châu lắc đầu, thật thà đáp. Thật
thà là một đức tính tốt nhưng lúc này nhìn nhỏ Châu, tôi chỉ muốn véo cho nó một
cái.
Nhỏ Châu không biết sát khí đang nổi
lên trên đầu tôi, lại tiếp tục chất vấn:
- Cây đàn có biết nói đâu mà nói
dùm!
- Thật tao chưa thấy ai ngu như
mày!
Tôi đổ quạu
- Chứ còn miệng tao nữa chi! Bộ tao không biết hát theo hả ?
- Anh mà hát?
Nhỏ Châu nhìn sững
tôi như thể nó chưa từng thấy tôi bao giờ.
- Chứ sao!
Tôi ưỡn ngực
- Mai mốt
gặp Cẩm Phô tao sẽ hát cho nó nghe bài "Nỗi buồn hoa phượng". Nghe
xong, chắc chắn nó sẽ xúc động đến ứa nước mắt.
"Nỗi buồn hoa phượng" là
một trong hai bài hát Phú ghẻ dạy tôi bữa trước. Nó bắt tôi đàn bản này cốt để
nó dạy điệu habanera, cũng như đàn bản "Lạnh Lùng" để học điệu tăng
go sơ cấp.
truyenhoangdung.blogspot.com
No comments
Post a Comment