PHONG THẦN DIỄN NGHĨA - CHƯƠNG 06 - HỨA TRỌNG LÂM
PHONG THẦN DIỄN NGHĨA
Tác giả : Hứa Trọng Lâm
Vua
Trụ truyền đốt gươm phép xong, Ðắc Kỷ lần lần tỉnh lại sắc diện trở nên xinh đẹp
như thường.
Trụ
Vương vuốt ve, yêu ấp suốt đêm chẳng hề nhắm mắt.
Ðến
khi sức khỏe Ðắc Kỷ đã bình phục. Trụ Vương trở lại ăn chơi như cũ.
Bấy
giờ Vân Trung Tử chưa về núi, còn ở chốn Triều Ca, thấy yêu khí bỗng nhiên từ
trong cung xông lên nữa, lấy làm lạ đánh tay tính quẻ một hồi rồi gật đầu thầm
nhủ:
-
Ta muốn đem gươm báu trừ yêu khí, giúp cơ nghiệp Thành Thang một thời gian nữa
nào ngờ số trời đã định, khó nổi đổi dời, nên khiến gươm tùng bị đốt. Như vậy
nhà Thương hết vận nhà Châu ra đời, thần tiên sẽ bị nạn. Ôi đã mất công xuống
trần một phen lại không làm nên việc. Tiện đây ta cũng nên viết ít chữ để lại
cho người đời sau thấy.
Nghĩ
rồi lấy viết đề lên bức tường đài Tư Thiên hai mươi bốn chữ như vầy:
"Yêu
phong uế loạn cung đình. Thánh đức bá vương Tây thổ. Yết trí huyết nhiễm Triều
Ca. Mậu ngủ trung giáp tý "
Nghĩa
là: "Khí yêu quấy rối cung càn. Thánh đức bủa giăng hướng dậu. Muốn hay
máu nhuộm Triều Ca. Giáp tý trong năm Mậu ngũ ".
Ðề
thơ xong, Vân Trung Tử lui về núi. Thiên hạ thấy đạo sĩ đề thơ xúm lại xem,
nhưng không hiểu ý.
Nhiều
người tự cho mình là hay chữ, vây quanh đông nức, xem mãi vẫn không tìm ra được
ý thơ.
Bấy
giờ có quan Thái Sư coi việc thiên văn là Ðổ Nguyên Tiến ở triều về, thấy dân
chúng xúm lại bên vách Ðài Tư Thiên liền hỏi:
-
Chuyện gì dó vậy?
Quân
canh bẩm:
-
Ông đạo sĩ đề thơ trên vách, nên dân chúng xúm nhau xem.
Ðổ
Thái Sư ngồi trên ngựa thấy hai mươi bốn chữ, ý rất xa xôi xem qua khó hiểu, liền
truyền quân đem nước rửa đi, đoạn về dinh ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không tìm ra đưọc
dụng ý.
Qua
mấy ngày chiêm nghiệm, Ðổ Nguyên Tiến nghĩ thầm:
-
Ðây chắc là đạo sĩ dâng gươm đã đề như vậy. Theo ý đạo sĩ thì trong cung yêu
khí xuất hiện. Còn ta xem thiên văn lại thấy hung tinh ứng ở cung Càn, ắt việc
chẳng lành.
Nay
bệ hạ đam mê tửu sắc, bỏ phế công việc trong triều, sớm tối thể nào cũng xảy ra
đại họa. Ta làm tôi hưởng lộc nước đã hai triều, lẽ nào trong lúc lâm nguy
khoanh tay ngồi ngó, không một lời can gián sao? Ta xem văn võ trong triều ai nấy
đều lo sợ, buồn bực vô cùng, sẳn dịp này ta viết một tờ sớ khuyên vua, may ra
giúp ích được gì chăng?
Nghĩ
như vậy, Ðổ Nguyên Tiến nội đêm ấy viết sớ cho xong.
Sáng
hôm sau, Ðổ Nguyên Tiến đem vào đưa cho Thừa Tướng Thương Dung, và nói:
-
Tôi xem thiên văn thấy hung tinh xâm phạm cung Càn, còn bệ hạ vui say tửu sắc,
bỏ bê việc triều chính, họa đến chẳng xa. Tôi làm sớ này dâng lên bệ hạ, xin Thừa
Tướng chuyển dùm.
Thương
Dung nói:
-
Thái Sư đã dâng sớ lẽ nào tôi không chuyển đạt, ngặt vì mấy hôm nay bệ hạ không
lâm triều, các quan không ai được thấy mặt, chỉ có cách là tôi phải mạo hiểm
vào cung cấm mà dâng mới xong.
Ðổ
Nguyên Tiến nói:
-
Ðó là bổn phận của Thừa Tướng, làm sao cho Thiên tử hối cải, chúng ta là tôi thần,
dẫu có bị sấm sét, búa rìu chút ít mà xã tắc được yên thì cũng cam.
Thương
Dung vội từ tạ Nguyên Tiến đi thẳng vào cung cấm. Qua khỏi chín căn đền lớn, đi
ngang qua đền Long Ðức, đến đền Hiển Thánh, đến Tỉ Thiện rồi đến Phấn Cung lầu.
Thương
Dung ra mắt quan Phụng Ngự, nói:
-
Tôi có việc cần xin vào bái yết hoàng thượng.
Quan
Phụng Ngự nói:
-
Thọ Tiên là cung cấm, chổ Hoàng thượng an nghỉ, các quan ngoài không vào được
đâu.
Thừa
Tướng Thương Dung nói:
-
Ta làm Thừa Tướng há chẳng hiểu luật triều đình sao? Chẳng qua là Thiên tử
không lâm triều, ta có việc cần nên phải đem thân đến đây. Ngươi mau vào tâu với
Thiên tử có Thừa Tướng Thương Dung đang đứng chầu ngoài cửa.
Quan
Phụng Ngự không dám cãi lời, vội vào tâu.
Trụ
Vương phán:
-
Thừa Tướng Thương Dung có việc gì cần thiết phải vào nội cung chầu Trẫm kìa?
Tuy Thương Dung là tôi bên ngoài, nhưng phò tá nghà Thương đã ba trào, lại già
cả, cho vào chầu cũng được.
Quan
Phụng Ngự liền trở ra truyền đòi Thừa Tướng vào.
Thương
Dung vào quỳ trước long sàng.
Trụ
Vương hỏi:
-
Thừa Tướng có việc gì khẩn cấp mà phải vào cung cấm chầu Trẫm?
Thương
Dung tâu:
-
Có Thái Sư Ðổ Nguyên Tiến xem thiên văn thấy yêu khí ẩn trong cung, tai họa tới
không lâu. Bởi vậy có làm sớ nhờ tôi dâng đến bệ hạ. Ðổ Nguyên Tiến là tôi già,
tay chân của bệ hạ không nỡ ngồi nhìn cơ nghiệp điêu tàn, xin bệ hạ xét lại,
chăm lo mối nước để trăm quan được vui vẻ, dân chúng nhớ đức phụng thờ.
Nói
rồi hai tay dâng sớ lên.
Trụ
Vương giở ra xem, trong sớ viết đại lược như sau:
"Tôi
là Ðổ Nguyên Tiến, coi đài thiên văn, vì nhiệm vụ cúi trình qua Thiên tử mấy lời
tâm huyết. Tôi nghe nói: nước nhà thịnh thì có điềm lành, nước nhà lâm nguy thì
sanh loài yêu nghiệt. Tôi xem đài thiên văn thấy điều bất lợi, khí yêu quyện
nơi đền vua, hơi ngút nơi cung cấm. Bởi bệ hạ đốt mất gươm thiêng, nên khí yêu
tái hiện nơi hoàng cung, nếu khí ấy lên đến Ðẩu Ngưu thì tai ương rơi vào xã tắc."
Thần
trộm nghĩ:
"Từ ngày Tô Hộ dâng con đến nay, ngai vàng bụi đóng, mối nước buông
lòng, sân chầu cỏ mọc xanh um, trước thềm rêu phong màu lục. Trăm quan hết sức
mong chầu chực, việc nước không kẻ ngó ngàng. Tôi không thấy mặt rồng, chúa vẫn
vui đùa tửu sắc, khác nào mây che mặt nguyệt, khói tỏa cung thềm, đàn sáo quen
tai, vua tôi lạ mắt. Biết chừng nào chầu chực như xưa, thái bình như cũ."
"Nay
tôi chẳng từ rìu búa, không ngại dữ lành, lòng lo cho nước non, quên mình mang
tội, nếu bệ hạ nghe tiếng phải, thấy điều ngay thì trăm họ rất mang ơn ".
Vua
Trụ xem xong cho lời Nguyên Tiến là phải, song nhớ lại chuyện đạo sĩ Vân Trung
Tử tặng gươm trừ yêu, suýt hại mạng mỹ nhân, thì nổi giận, nói:
-
Sớ này cũng nói đến chuyện yêu mị chẳng khác tên đạo sĩ trước kia. Thật là chuyện
rắc rối.
Liền
quay qua hỏi Ðắc Kỷ:
-
Trong sớ, Ðổ Nguyên Tiến cũng nói yêu mị trong cung là tại sao vậy?
Ðắc
Kỷ quỳ tâu:
-
Ngày trước,Vân Trung Tử là một gã yêu đạo bày chuyện dối vua, khiến muôn dân
nghe việc ấy mà loạn động, tư tuởng không an. Nay Ðổ Nguyên Tiến làm chức Thái
Sư tại triều mà cũng cùng một hành động dối vua như tên yêu đạo đó nữa thì dân
chúng sẽ đảo huyền, lòng người xao loạn. Yêu mị ở Triều Ca chính là bè lũ mị
chúa ấy, xin bệ hạ truyền chém hết những ai có ý mê hoặc như vậy mới giữ gìn xã
tắc được.
Trụ
Vương nghe Ðắc Kỷ nói, mặt đỏ bừng, quay lại nói với Thừa Tướng Thương Dung:
-
Tô mỹ nhân luận rất phải. Yêu mị đó chính là bọn theo phe yêu đạo, mê hoặc lòng
dân, gây mầm phản loạn. Ðổ Nguyên Tiến tuy là tôi già song tội không thể dung
tha.
Liền
truyền lệnh chém Ðổ Nguyên Tiến bêu đầu để răn chúng.
Thừa
Tướng Thương Dung nghe lệnh liền quỳ xuống can:
-
Ðổ Nguyên Tiến là tôi ba đời, tuổi cao tác lớn, lâu nay trải mật, gìn giữ lòng
son, khuông phò xã tắc, sớm lo trả ơn vua, tối lo đền xã tắc. Việc bất đắt dĩ
nên phải nói, bệ hạ nỡ giết đi sao đành? Chỉ vì lời can gián của Thái Sư mà bệ
hạ đem giết. Thái Sư dẫu chết cũng được tiếng trung thần, song tôi e bệ hạ không
khỏi mang tiếng gièm pha, trăm quan bất bình nổi loạn. Xin bệ hạ nghĩ lại tha tội
cho Thái Sư kẻo oan.
Trụ
Vương nói:
-
Thừa Tướng không hiểu việc này. Bởi tên yêu đạo mị dân, khi vua, buông lời huyền
hoặc Thái Sư lại cũng một phe với nó, làm cho lòng dân đảo huyền, nếu không
chém Thái Sư Ðổ Nguyên Tiến thì không thể trấn an thiên hạ được.
Thương
Dung quỳ tâu mãi, nhưng Trụ Vương nhất định không nghe, hối thúc quan thái giám
đuổi Thương Dung ra ngoài và truyền chỉ chém Ðổ Nguyên Tiến tức khắc.
Thương
Dung nhất định không chịu ra về, Trụ Vương phải sai hai quan thái giám khiêng
Thương Dung bỏ ra ngoài cửa cung rồi đóng cửa lại.
Thương
Dung bất đắc dĩ phải dứng dậy lễnh mễnh trở ra, về đến nhà ngự thư thấy Ðổ
Nguyên Tiến râu tóc bạc phơ, đôi mắt chứa chan hy vọng, đang đợi Thương Dung.
Thương
Dung nhìn mặt Ðổ Nguyên Tiến chua xót vô cùng.
Thì
ra Ðổ Nguyên Tiến bị vua truyền chém đầu răn chúng mà Nguyên Tiến vẫn chưa biết,
còn hy vọng ở lời sớ của mình có thể sửa đổi được lòng vua.
Ðổ
Nguyên Tiến thấy Thương Dung liền hỏi lớn:
-
Sao? Thừa Tướng đã dâng sớ của tôi lên Thiên tử rồi chứ?
Thương
Dung buồn bã nói:
-
Bệ hạ xem sớ rồi, nhưng….
Ðổ
Nguyên Tiến còn đang ngơ ngác thì đàng sau một tốp võ sĩ và một quan thái giám
bước đến đọc tờ chiếu chỉ của Trụ Vương:
"Ðổ
Nguyên Tiến khi quân dối vua, lừa gạt dân chúng, tội đáng chém đầu, nay xử theo
phép nước ".
Quan
thái giám đọc chiếu xong, võ sĩ áp lại trói Ðổ Nguyên Tiến dẫn ra pháp tràng.
Nhưng
mới dẫn đến cầu Cửu Long xảy gặp một viên quan Ðại Phu mặc áo rộng đỏ, trông thấy
cản lại hỏi:
-
Ðổ Thái Sư phạm tội gì mà bệ hạ truyền chém?
Ðổ
Nguyên Tiến thấy quan Ðại Phu ấy là Mai Bá, một kẻ trung thần xưa nay có tiếng,
liền chắc lưỡi than:
-
Thiên tử ham mê tửu sắc, bỏ việc triều chánh, tôi làm sớ khuyên can Thiên tử lại
cho tôi là đồng đảng với đạo sĩ hôm nọ, tìm lời ủy mị để dụ lòng dân làm loạn,
nên truyền chém đầu tôi để răn chúng. Vua đã bảo chết, đạo làm tôi đâu dám
trái, chỉ thương hại cơ nghiệp Thành Thang xây dựng bao nhiêu đời, nay vì sắc đẹp
mà tiêu theo mây khói. Ôi, chắc quan Ðại Phu cũng thấy như tôi, đời người chỉ
là tai ương thảm họa, công danh chỉ là mây bay, đời đã vậy còn luyến tiếc gì sự
sống nữa.
Mai
Bá xua tay bảo đao phủ thủ hãy khoan hành quyết Nguyên Tiến, để mình đến trước
mặt vua minh oan đã.
Dứt
lời mai bá hối hả chạy vào đền, bỗng gặp Thừa Tướng Thương Dung mặt buồn dàu
dàu, đang đứng nhìn sững về phía pháp trường, Mai Bá hỏi:
-
Thừa Tướng ơi, Ðổ Thái Sư bị tội gì mà bệ hạ đem giết?
Thương
Dung nói:
-
Thái Sư dâng sớ can vua, bệ hạ nghe lời Tô mỹ nhân bắt tội Thái Sư. Tôi hết lời
can gián, nhưng bệ hạ không nghe, biết làm sao?
Mai
Bá nghe nói nổi xung:
-
Thừa Tướng nói sao lạ vậy? Bổn phận ông coi về chuông vạc, sửa chữa âm dương,
thấy nịnh thì trừ, gặp gian thì giết, khen kẻ giỏi, tiến người hiền. Vua phải
thì làm thinh, vua trái thì can gián. Nay Thiên tử nghe lời nữ sắc, giết hại
tôi hiền, Thừa Tướng không dám mở lời cản ngăn, ấy là tham sống sợ chết, lánh tội
tiếc thân, như vậy đâu phải bổn phận một vị Thừa Tướng?
Thương
Dung buồn bã nói:
-
Quan Ðại Phu chớ trách tôi như vậy. Bệ hạ không nghe thì còn biết làm sao?
Mai
Bá quay lại nạt bọn đao phủ thủ:
-
Hãy khoan khai đao, đợi ta và Thừa Tướng vào cung xin tội cho Thái Sư đã.
Nói
rồi nắm tay Thương Dung dắt đến cung Thọ Tiên, vào thẳng Phấn lầu, quỳ mọp dưới
đất.
Quan
thái giám trông thấy vào tâu:
-
Có quan Thừa Tướng và quan Ðại Phu Mai Bá xin vào yết kiến.
Trụ
Vương nổi giận nói:
-
Như quan Thừa Tướng già nua, đã ba đời phò chúa thì vào được còn Mai Bá sao dám
đương nhiên vào đây.
Liền
dạy cho Thương Dung vào, và đuổi Mai Bá đi. Mai Bá nhất định không chịu, khiến
cho thái giám không thể nào đuổi được. Thừa dịp Thương Dung vào chầu, Mai Bá
cũng theo quỳ một bên.
Trụ
Vương trông thấy hỏi:
-
Mai Bá, ta không truyền đòi ngươi vào, sao ngươi vào đây?
Mai
Bá tâu:
-
Lâm triều là nhiệm vụ của bệ hạ, chầu chực để nghe dạy việc là phận làm tôi.
Trụ
Vương mắng:
-
Ngươi không hiểu luật triều đình, vào cung cấm là phạm tội sao?
Mai
Bá tâu:
-
Hạ thần đã hiểu, nhưng hạ thần là tôi của bệ hạ. Làm tôi phải đến chầu vua, nếu
không biết vua ở đâu mà chầu thì hạ thần còn biết làm tôi với ai? Nếu bệ hạ ngự
triều xét việc thì hạ thần không phạm tội vào cung cấm.
Trụ
Vương thấy Mai Bá nói dằng dai bực mình hỏi:
-
Ngươi vào đây có việc gì?
Mai
Bá tâu:
-
Xin quỳ nghe lời chỉ giáo của bệ hạ.
Trụ
Vương nói:
-
Ta không có việc gì cần đến ngươi cả. Hãy ra ngoài mau.
Mai
Bá nói:
-
Nếu bệ hạ không có việc gì sai khiến thì hạ thần xin hỏi bệ hạ Ðổ Thái Sư phạm tội
gì mà bệ hạ đem giết?
Trụ
Vương nói:
-
Ðổ Nguyên Tiến đồng mưu với yêu đạo, đặt chuyện làm cho lòng dân rối loạn,
không phân biệt chánh tà. Một vị đại thần đáng lẽ lo trấn an bá tánh thì lại
gây hoang mang trong triều, Trẫm hành hình là đáng lắm, tại sao không tội.
Mai
Bá nói lớn:
-
Tôi nghe các bậc minh quân ngày xưa trị dân theo khuôn phép, nghe lời phải của
trung thần, hằng ngày ngự triều lo việc, quên cả ăn ngủ, như thế mới gây được
cơ nghiệp, giữ vững được mối nước. Nay bệ hạ đam mê tửu sắc, sáu tháng không ngự
biết gì đến chánh lệnh, thế mà có người dâng sớ can gián lại bị bệ hạ chém đầu
răn chúng, thì hạ thần thiết nghĩ không biết bệ hạ răn như thế nào? Vua cũng
như một tòa nhà, tôi trung như rường cột. Nếu bệ hạ chặt bỏ hết rường cột thì
tòa nhà làm sao đứng vững. Xin bệ hạ xét lại, tha tội cho Ðổ Thái Sư để khỏi
làm phật ý trăm quan, và thiên hạ trông thấy cảm đức.
Vua
Trụ bị Mai Bá nói một hồi bực mình hét:
-
Nghịch thần! Ðã trái lệnh vào cung còn lắm miệng, già mồm. Tội ngươi thông đồng
với Nguyên Tiến đáng xử trãm, song Trẫm nghĩ ngươi là tôi có công, nên truyền
cách chức Ðại phu, không dùng ngươi nữa.
Mai
Bá ré lên:
-
Hôn quân, ngươi nghe lời Ðắc Kỷ bỏ đạo vua tôi. Nay bệ hạ chém đầu Ðổ Nguyên Tiến
chẳng khác nào chém đầu tất cả bá tánh nơi Triều Ca này. Tôi bị cách chức không
hại gì, công danh như mây khói, tôi không màng, chỉ tiếc cơ nghiệp Thành Thang
gây dựng mấy đời vì hôn quân hám sắc mà đổ nát. Bởi Thái Sư Văn trọng mắc dẹp
loạn Bắc phương nên hôn quân mới vứt bỏ lề luật, u ám như vậy. Mai Bá này chết
xuống suối vàng vẫn còn xấu hổ không dám nhìn thấy mặt tiên quân.
Trụ
Vương bị Mai Bá mắng giận lắm, truyền võ sĩ bắt Mai Bá đem ra pháp trường lấy
dùi đồng đập cho nát đầu để làm gương.
Ðắc
Kỷ quỳ tâu:
-
Xin bệ hạ tạm hoãn lại đạ.
Trụ
Vương hỏi:
-
Loạn thần mắng vua như thế, mỹ nhân còn can gián làm gì?
Ðắc
Kỷ tâu:
-
Làm tôi mà đứng trước đền trợn mắt, nhíu mày, dùng lời lẽ sỉ mắng vua như vậy
thì dù có đập nát đầu cũng chưa đền tội được. Xin bệ hạ truyền cầm tù Mai Bá một
đôi ngày để thần thiếp chế ra một dụng cụ hành hình, làm cho những kẻ nghịch thần
trông thấy khiếp vía thì sau này mới trấn áp được những kẻ ngông cuồng như Mai
Bá.
Vua
Trụ hỏi:
-
Mỹ nhân định chế ra dụng cụ gì?
Ðắc
Kỷ tâu:
-
Vật ấy gọi là Bào Lạc, hình thù như cây cột đồng, bề cao 29 thước, bề tròn 8
thước, có khoét ba cái miệng đựng lửa than. Cột đồng ấy đúc bằng đồng lọc. Lúc
muốn hành hình một tội nhân thì quạt lửa cho cột đồng đỏ lên, rồi trói tội nhân
lại dí vào đấy, tức thì xương thịt tội nhân cháy thành tro trong nháy mắt. Thần
thiềp nghĩ rằng không dùng hình phạt như vậy thì không sao trừ được những kẻ
già mồm miệng, những tôi thần phản nghịch mắng vua, không kể pháp luật.
Trụ
Vương khen:
-
Lối trừng phạt của mỹ nhân quả xứng đáng. Vậy mỹ nhân vẽ kiểu để truyền quân sĩ
làm Bào Lạc cho gấp.
Nói
rồi truyền dẫn Mai Bá đem nhốt ở thiên lao, chờ ngày hành tội.
Thương
Dung thấy Vua Trụ nghe lời Ðắc Kỷ làm Bào Lạc hại tôi trung để ở trước cung Thọ
Tiên thì nghĩ thầm:
-
Nay nước nhà gần mất, vua nghe lời của yêu mị không kể gì đến tình vua tôi nữa.
Ta những tưởng có thể khuyên can để cải hóa Cửu Trùng, ngờ đâu càng ngày vua
càng thiếu đức, nếu ta còn góp mặt ở triều đình thì cũng chì làm bù nhìn cho
hôn quân, chẳng ích gì cho dân chúng nữa. Chẳng thà lánh mặt đi là hơn.
Nghĩ
rồi vào tâu với Vua Trụ:
-
Nay thiên hạ thái bình, nước nhà thạnh trị, tôi tuổi tác đã già, lẩm cẩm không
giúp ích được việc gì cho bệ hạ nữa, nếu cứ mãi ở địa vị cao sang mà không tròn
trách vụ, e mắc tội với triều thần, vậy xin được phép đem nắm xương tàn về thôn
dã, cởi áo mão gửi lại, nhường cho kẻ tài ba. Hạ thần làm tôi đã ba trào, tài
hèn đức mọn, không bị quở trách cũng là ơn lắm rồi.
Vua
Trụ nói:
-
Khanh tuy tuổi đã cao, nhưng sức còn mạnh, lẽ nào bỏ Trẫm mà về quê hưởng thú
thanh nhàn.
Thương
Dung nói:
-
Bệ hạ cho thần cáo hưu về xứ, nếu còn sống được ngày nào cũng ước mong được thấy
mặt trời Nghiêu, ơn đức ấy còn gì hơn.
Trụ
Vương nói:
-
Khanh là tôi có công mấy đời với nghiệp đế chưa hề bị lầm lỗi điều gì. Nay ý
khanh đã quyết, Trẫm đâu dám làm phật ý.
Liền
sai hai vị thái giám dùng lễ vật đưa Thương Dung về quê, truyền quan sở tại phải
ân cần thăm viếng Thương Dung luôn để tỏ tình tôi chúa.
Bấy
giờ các quan nghe tin Thừa Tướng Thương Dung trả chức về hưu đều mến tiếc.
Có
người cho Thương Dung hèn nhát, gặp lúc quốc gia nguy vong không đem thân cứu
nước, trốn tránh nhiệm vụ, tìm lẽ sống riêng.
Có
kẻ cho hành động Thương Dung là một hành động phản đối Trụ Vương, mong cho Trụ
Vương thấy đó mà hồi tỉnh lại. Tuy vậy, không ai dám nói ra.
Hoàng
Phi Hổ, Tỉ Can, Vi Tử, Cơ Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và các vị thân vương đồng
họp nhau làm tiệc nơi Trường Ðình để tiễn hành.
Tỉ
can hỏi Thương Dung:
-
Hôm nay Thừa Tướng hồi hương, chúng tôi ai cũng bùi ngùi cảm mến. Ðã ba trào
vua, Thừa Tướng là người đứng đầu trong nước, giúp chúa trị dân, nay nỡ nào
đành bỏ cơ nghiệp Thành Thang, bỏ cả bạn hữu đồng triều, lánh mặt về quê hưởng
riêng một thú?
Thương
Dung rươm rướm nước mắt nói:
-
Xin các vị vương thân chớ chê trách. Tôi dẫu phải nghiền xương đền nợ nước cũng
không dám từ nan. Ngặt nay chúa thượng nghe lời Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc hại
trung thần. Một hình phạt rất dã man tàn nhẫn, tôi không thể can gián nổi. Nghĩ
mình tài hèn trí mọn, không xứng ngồi ghế Thừa Tướng trong lúc này, nên cởi áo
từ quan ước mong có một kẻ nào đủ tài đức, cứu vãn được cảnh tai ương này, lên
thế tôi cầm quyền chính, giác ngộ thánh hoàng, thì cơ nghiệp Thành Thang mới có
cơ bền vững, bằng không nước nhà ly loạn không lâu. Tôi từ chức là vì lẽ đó, chớ
đâu dám trốn tránh nhiệm vụ, nuôi dưỡng tấm thân yếu hèn nầy làm gì. Hôm nay
các ngài làm tiệc tiễn hành, nhưng chẳng may nước nhà vẫn không thoát khỏi cơn
khói lửa thì những ly rượu nầy vẫn là những ly rượu hẹn ngày tái ngộ trong phút
lâm chung, xin các ngài hiểu lòng tôi như vậy.
Nói
rồi tay bưng rượu, miệng ngâm bài thơ:
Cảm
nghĩa đưa nhau rượu một chung
Trrường
đình giả bạn tủi khôn cùng
Nghoảnh
đầu trông lại thành hai kiếp
Về
ruộng cầu mong vững chính trùng
Nhật
đỏ không tiêu danh Hạ, Kiệt
Lòng
son khó nhuộm máu Long, Phùng
Tỏ
lời lệ nhỏ hòa chun rượu
Mong
thuở về trào viếng bạn trung
Ai
nấy nghe mấy vần thơ của Thương Dung cũng rơi lệ.
Thương
Dung lên ngựa, các quan đưa đón hơn mười dậm mới trở về.
Trong
lúc đó Vua Trụ vẫn chìm ngập trong tửu sắc, khồng hề nghĩ đến việc nước nhà.
Cách
ít hôm, thợ làm Bào Lạc đã xong, Vua Trụ mừng lắm, hỏi Ðắc Kỷ:
-
Bào Lạc đã làm rồi, mỹ nhân định liệu thế nào?
Ðắc
Kỷ truyền đem Bào Lạc đến xem.
Quân
sĩ tuân lệnh đẩy Bào Lạc đến trước cửa cung.
Trụ
Vương và Ðắc Kỷ bước ra xem thấy một cột đồng cao lớn, dưới có bánh xe, đẩy đi
rất dễ.
Ðắc
Kỷ soát lại một hồi rồi khen:
-
Thợ làm rất đúng cách. Trụ đồng nầy nếu đốt lửa thì sức nóng phi thường, không tưởng
tượng nổi.
Trụ
Vương nói:
-
Ðể ngày mai Trẫm đem ra thí nghiệm đốt Mai Bá tại triều cho quần thần thấy kinh
hoàng vỡ mật.
Ðắc
Kỷ nói:
-
Bệ hạ đủ can đảm làm như vậy thì bọn nghịch thần mới khiếp uy.
Trụ
Vương nói:
-
Mỹ nhân chế ra được báu vật trị đời, công của mỹ nhân rất lớn.
Sáng
hôm sau, tuy trong mình mỏi như giần, Trụ Vương vẫn gượng dậy sớm ra trước triều,
truyền đánh ba hồi trống triệu tập quần thần lại.
Triều
thần đã hơn nửa năm không thấy mặt vua, nay được thiết triều ai nấy mừng rỡ, vội
vã ứng hầu đủ mặt.
Sau
khi triều bái xong. Vua Trụ không xem sớ, cũng không xét việc gì khác, chỉ truyền
quân đẩy Bào Lạc ra trước sân rồng.
Hoàng
Phi Hổ thấy trụ đồng cao chất ngất, không hiểu là vật gì, để dùng làm gì. Còn
các quan hình như cũng không ai hiễu, đưa mắt nhìn nhau không dám nói gì.
Vua
Trụ truyền lệnh dẫn Mai Bá ra, đồng thời đốt từng lửa, quạt cho ống đồng thật đỏ,
hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, trông thật ghê hồn.
Quân
vào ngục dẫn Mai Bá ra đến ngọ môn.
Các
quan thấy Mai Bá đầu bù tóc rối, không đội mảo, không mặc áo, mình mẩy dơ bẩn
vì đã bị giam vào ngục hơn một tuần rồi.
Mai
Bá đến trước sân rồng, quỳ nói:
-
Tôi là Mai Bá cúi đầu ra mắt bệ hạ.
Vua
Trụ chỉ Bào Lạc, gọi Mai Bá nói:
-
Thằng khốn nạn! Ngươi biết vật gì đó không?
Mai
Bá nhìn không biết vật gì kỳ lạ, liền tâu:
-
Hạ thần không hiểu vật đó để làm gì cả.
Trụ
Vương nói:
-
Bởi ngươi già hàm, vào cung lớn tiếng chửi vua, nên Trẫm chế ra vật ấy để đốt
ngươi cho tan xương nát thịt, làm gương cho những kẻ bất trung, phản nghịch đó.
Mai
Bá nghe nói nổi giận, mắng lớn:
-
Hôn quân vô đạo! Ta làm quan Ðại Phu đã ba trào, công nghiệp đến bực nào mà phải
chịu hành hình như vậy? Ta coi cái chết như lông hồng, chỉ tiếc cơ nghiệp Thành
Thang một phút bị đứa hôn quân làm đổ nát. Ta chết không nỡ nhìn thấy các tiên
vương dưới suối vàng.
Vua
Trụ giận dữ, truyền quân dùng lòi tói cột hết tay chân Mai Bá dí vào Bào Lạc. Tội
nghiệp! Mai Bá chỉ kịp ré lên một tiếng, xương thịt cháy khét lẹt, phút chốc
thành tro. Một tấm lòng trung, một thân đầy nghĩa khí, chỉ một phút chốc không
còn gì hết.
Người
sau xem chuyện nầy có làm thơ than:
Xương
thịt tuy là hóa bụi tro
Lòng
son vì nước giữ bo bo
Sống
vì nghĩa chúa lo ngay thẳng
Chết
giữ danh thơm chẳng đắn đo
Lửa
đốt hồn linh chầu tiên đế
Tiếng
khen sử sách vẫn không mờ
Hỡi
ai đầu bẹo trên cờ trắng
Có
nhớ lời trung nước dặn dò
Ðốt
Mai Bá trước sân chầu, Trụ Vương cố ý làm cho triều thần khủng khiếp, không dám
can gián vua nữa. Nhưng sự thực, trước mặt Trụ Vương ai trông thấy cũng chán
nãn không muốn can gián làm gì. Người nào mặt cũng lầm lầm lì lì không nói.
Họ
không sợ chết, không dám can vua, nhưng vì họ thấy can cũng vô ích, thà từ quan
lui về đồng ruộng còn hơn. Do đó chẳng ai nói một lời, cứ đưa mắt nhìn nhau
thôi.
Vua
Trụ không hề hiểu tâm trạng của triều thần lúc ấy, tưởng các quan ai cũng sợ
cách trừng phạt của mình, nên trong lòng lấy làm đắc ý.
Vua
truyền bãi chầu về cung, các quan lặng lẽ lui gót, chỉ còn lại các vì Vương nghẹn
ngào trong đau đớn.
Tỷ
Can nói với Hoàng Phi Hổ:
-
Trong lúc Bắc phiên nổi loạn, Thái Sư Văn Trọng bận đi dẹp giặc xa, không ngờ ở
nhà thiên tử đắm say tửu sắc nghe lời Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc giết tôi trung. Nếu
tiếng đồn đến tai chư hầu chẳng biết thiên hạ sẽ đảo huyền đến bực nào. Chúng
ta hưởng lộc triều đình đã mấy trào, chẳng lẽ khoanh tay ngồi ngó tai ương thân
họa sắp đến?
Hoàng
Phi Hổ nói:
-
Bệ hạ đốt Mai Bá không phải chỉ đốt một tôi trung mà đốt cả cơ nghiệp Thành
Thang đấy. Lời xưa có nói: Vua bất minh tôi ắt loạn. Mối nước không thể nào gìn
giữ được nữa. Chúng ta ngồi đây cũng không biết chết sống ngày nào, đừng nói là
Mai Bá.
Các
vị thân vương đều nhìn nhau thở dài, nhưng không ai có kế sách gì cả, đều gạt lệ
trở về tư dinh.
Còn
Vua Trụ, sau khi đốt Mai Bá xong, hăm hở trở về cung Thọ Tiên, có Ðắc Kỷ bước
ra nghênh tiếp.
Trụ
Vương bước xuống long xa, nắm tay Ðắc Kỷ khen:
-
Mỹ nhân bày ra Bào Lạc thật hay lắm. Bữa nay Trẫm đem Mai Bá ra đốt giữa sân
triều, các quan đều kinh tâm táng đỡm, không ai dám thò đầu ra nói lời nào. Thật
Bào Lạc là vật báu trị dân, yên nhà lợi nước. Từ rày sắp tới Trẫm không còn kẻ
hỗn láo, buông lời nhục mạ Trẫm nữa.
Ðắc
Kỷ nói:
-
Những kẻ khi quân nếu không dùng đến cực hình ghê gớm thì trị sao nổi. Thần thiếp
còn nhiều cách khác chưa dùng đến.
-
Mỹ nhân có cách gì hay cứ cho Trẫm biết, đừng ngại gì cả.
Ðắc
Kỷ nói:
-
Bệ hạ cứ an lòng. Lúc nào bệ hạ cần đến, thắn thiếp xin dâng kế.
Trụ
Vương vuốt ve Ðắc Kỷ khen:
-
Trẫm được mỹ nhân bên cạnh thì lo gì trị nước không xong.
Khen
rồi tuyền nội thị bày yến tiệc đãi Ðắc Kỷ, tán thưởng tài năng của mỹ nhân.
Bấy
giờ, tiếng tơ vọng trúc vang rền, bàn tiệc không thiếu gì món ngon vật lạ, Vua
Trụ vừa ăn vừa xem Ðắc Kỷ múa hát, tâm hồn như bay bổng trên chín từng mây,
không còn biết gì là khuya sớm nữa. Cho đến lúc trống đã trở canh ba mà tiếng
nhạc còn réo rắc vang một góc trời.
Ðêm
ấy Khương hoàng hậu không ngủ được, nghe tiếng nhạc vang vầy, liền hỏi mấy cung
nữ:
-
Trống đã trở canh ba, sao còn tiếng nhạc ở đâu náo nhiệt như thế?
Cung
nữ thưa:
-
Ðó là tiếng đàn bên cung Thọ Tiên. Chúa thượng cùng Tô mỹ nhân vui chơi đó.
Khương
hoàng hậu than:
-
Lúc này ta có nghe tin hoàng thượng nghe lời Tô Ðắc Kỷ chế hình Bào Lạc đốt Mai
Bá giữa triều. Mai Bá là một tôi trung, phò vua đã ba đời, sao nỡ hành hình thảm
thiết như vậy? Thế là hoàng thượng bị con khốn kiếp này khuynh đảo tinh thần,
không còn phân định được phải trái nữa. Ta làm hoàng hậu chưởng quản tam cung lục
viện lẽ đâu thấy việc trái mắt mà không nói tới.
Nói
rồi truyền cung nữ đẩy xe, xách đèn đến cung Thọ Tiên.
Lúc
này Trụ Vương đang uống rượu với Ðắc Kỷ, có Huỳnh Môn quan vào tâu:
-
Khương hoàng hậu đến trước cửa cung xin vào ra mắt.
Trụ
Vương đang say rượu, lại thức khuya, hai con mắt lim dim lè nhè nói với Ðắc Kỷ.
-
Có Chánh cung đến, mỹ nhân nên ra thủ lễ rước Chánh cung vào.
Ðắc
Kỷ tuân lệnh bước ra trưóc cửa nghiêng mình uốn gối quỳ xuống tiếp đón.
Khương
hoàng hậu truyền đỡ Ðắc Kỷ dậy.
Ðắc
Kỷ dắt Khương hoàng hậu vào cung, đồng yết kiến Trụ Vương.
Trụ
Vương truyền dành chổ cho Khương hoàng hậu ngồi và tiếp tục bày tiệc đãi Khương
hoàng hậu.
Khương
hoàng hậu ngồi một bên Vua Trụ, trong lúc đó Ðắc Kỷ lễ mễ đứng hầu trông rất phải
phép.
Vua
Trụ đẹp lòng nói với Khương hoàng hậu:
-
Ái hậu sang đây chung vui, Trẫm mừng lắm.
Liền
truyền Ðắc Kỷ đờn ca múa hát để cho hoàng hậu xem.
Ðắc
Kỷ tuân lệnh vua, vừa múa vừa ca, thân hình yểu điệu, xiêm y lả lướt chẳng khác
gì Hằng Nga múa khúc Nghê Thường trên Nguyệt điện, tiếng hát lại thanh tao như
tiếng chim đầu Xuân.
Vua
Trụ mê ly quên cả trời đất.
Còn
Khương hoàng hậu mặt dàu dàu, ngồi nhìn xuống đất, không uống rượu, cũng không
thưởng thức nhạc khúc của Ðắc Kỷ đang trình diển trước mắt.
Trụ
Vương trông thấy không hài lòng, hỏi:
-
Hậu ơi! Ngày tháng như thoi đưa, đời người chẳng khác bóng câu qua cửa sổ, chẳng
mấy chốc đã trở về già, không ăn chơi cho thỏa chí bình sanh thì còn gì thú vị
nữa. Như giọng ca tiếng hát của Tô mỹ nhân đây, dù Hằng Nga trên cung trăng
cũng không sánh kịp, sao Hậu không uống rượu nghe đàn, lại buồn rầu như vậy.
Khương
hoàng hậu vội bước xuống quỳ tâu:
-
Thần thiếp lòng không vui, dù có tiên xuống phàm múa hát cũng không làm khuây
được.
Trụ
Vương lè nhè:
-
Thì Tô mỹ nương có thua gì tiên nữ chốn bồng lai? Hậu không biết thưởng thức
cái hay cái lạ đó?
Khương
hoàng hậu nói:
-
Ðắc Kỷ múa hát có gì gọi là báu lạ đâu?
Trụ
Vương hỏi:
-
Như vậy thì thế nào mới gọi là báu lạ?
Khương
hoàng hậu nói:
-
Thần thiếp nghe nói hễ vua có đạo đức thì khinh của quí mà trọng đức lành, đuổi
tôi gian, xa sắc dục. Ðó mới chính là cái báu lạ của nhà vua.
Trụ
Vương cười ha hả, nói:
-
Trẫm làm vua, giàu sang bốn biển, muốn hưởng thú gì không có, dẫu trong trời đất,
báu lạ nào Trẫm lại không có quyền hưởng đến?
Khương
hoàng hậu nói:
-
Trời chỉ có những báu lạ là mặt nhật, mặt nguyệt và các vì tinh tú. Ðất chỉ có
những báu lạ là năm thứ thóc, năm thứ giống trái. Nước chỉ có báu lạ là tôi
ngay, tướng giỏi. Nhà chỉ có báu lạ là con cháu thảo hiền. Những báu lạ như vậy
bệ hạ không tìm hưởng, lại chọn ca, lựa múa, nghe lời dua nịnh, giết tôi ngay,
gần gũi sắc dục, đó không phải là báu lạ mà chính là thứ làm mất nước, xin bệ hạ
bỏ đi dừng tiếc. Bớt rượu, xa tửu sắc, chăm lo chính sự, sửa nết răn mình, thì
họa may trời xuống phúc, thiên hạ thái bình, bốn biển yên vui.
truyenhoangdung.blogspot.com
No comments
Post a Comment