CHƯƠNG 22 - KHI LỖI THUỘC VỀ NHỮNG VÌ SAO - TIỂU THUYẾT THẾ GIỚI
KHI LỖI THUỘC VỀ NHỮNG VÌ SAO
Tác giả: John Green
Thể loại: Tiểu thuyết phương Tây
CHƯƠNG 22:
Anh Augustus Waters mất tám
ngày sau buổi diễn tập tang lễ đó, tại Bệnh viện Memorial, trong Phòng chăm sóc
đặc biệt, khi căn bệnh ung thư, vốn đã di căn toàn bộ cơ thể anh, cuối cùng đã
làm tim anh, cũng là một phần cơ thể anh, ngừng đập.
Lúc anh mất có mặt ba anh, mẹ anh cùng hai chị gái. Mẹ anh gọi tôi lúc ba giờ
rưỡi sáng. Dĩ nhiên tôi biết ngay là anh đã ra đi. Tôi đã nói chuyện với ba anh
trước khi đi ngủ, và ông đã nói với tôi, “Có thể là tối nay đấy!” nhưng đến khi
tôi chộp lấy điện thoại trên chiếc bàn cạnh giường ngủ và nhìn thấy dòng chữ Mẹ
anh Gus trên màn hình, mọi thứ trong tôi đều sụp đổ. Bà chỉ khóc nức nở ở đầu
dây bên kia và bảo rằng bà rất tiếc. Tôi cũng nói tôi lấy làm tiếc. Và bà cho
tôi biết rằng anh đã hôn mê trong vài giờ trước khi mất.
Sau đó, Ba Mẹ tôi vào phòng, nhìn tôi như thăm dò và tôi chỉ gật đầu. Cả hai
quay qua ôm nhau, cùng cảm nhận, tôi đoán chắc thế, nỗi kinh hoàng xâm lấn hai
tâm hồn đồng điệu ấy.
Tôi gọi cho anh Isaac, người luôn miệng nguyền rủa từ cuộc sống đến vũ trụ và
cả Đức Chúa Trời, rồi bảo tại sao khi cần thì chẳng tìm được chiếc cúp chết
tiệt nào để đập vỡ. Sau đó tôi chợt nhận ra rằng không còn ai khác để gọi báo
tin, đó là điều đáng buồn nhất. Người duy nhất tôi thật sự muốn kể về cái chết
của Augustus Waters lại chính là anh Augustus Waters.
Ba Mẹ tôi ở lại suốt trong phòng cho đến khi trời sáng và cuối cùng Ba hỏi,
“Con có muốn được một mình không?” Tôi gật đầu và Mẹ âu yếm nói, “Ba Mẹ ở ngay
bên ngoài cửa thôi!” Tôi thầm nghĩ, con biết mà.
Thật không thể chịu đựng nổi. Toàn bộ sự việc. Mỗi giây trôi qua lại càng tệ
hại hơi so với trước. Tôi cứ nghĩ miên man về việc gọi cho anh, tự hỏi điều gì
sẽ xảy ra, liệu có ai trả lời không. Trong những tuần vừa qua, chúng tôi đã
dành nhiều thời gian bên nhau để cùng ôn lại kỷ niệm, và điều đó đã để lại một
tác động rất lớn: khi anh không còn nữa, tôi đã bị tước đi niềm vui của việc
tưởng nhớ, vì giờ đây tôi không còn ai để cùng ôn lại kỷ niệm. Mất đi người
cùng ôn chuyện với mình, cảm giác đó cũng đau đớn như là đánh mất chính ký ức
đã có với họ vậy, điều đó không khác nào những gì chúng tôi đã trả qua trở nên
xa vời và vô nghĩa hơn so với vài giờ trước đó.
Khi bạn được chuyển vào Phòng cấp cứu, một trong những điều đầu tiên các bác sĩ
yêu cầu bạn làm là đánh giá mức độ đau của bạn trên thang đo từ một đến mười,
và từ đó họ sẽ quyết định sử dụng loại thuốc nào và xử lý nhanh ra sao. Tôi đã
được hỏi câu hỏi này hàng trăm lần trong những năm qua, và tôi nhớ có một lần
lâu lắm rồi, khi tôi không thể thở được và cảm giác như ngực mình đang bốc
cháy, ngọn lửa liếm đến mé trong xương sườn và tìm cách lan ra toàn thân, Ba Mẹ
lập tức đưa tôi vào Phòng cấp cứu. Một cô y tá hỏi tôi về mức độ đau đớn và tôi
thậm chí không thể cất tiếng nói, vì vậy tôi đã giơ chín ngón tay.
Một hồi sau, khi họ đã can thiệp gì đó cho tôi, cô y tá ấy lại đến và đại loại
là vuốt ve tay tôi trong khi đo huyết áp cho tôi và cô âu yếm nói, “Cháu biết
vì sao cô gọi cháu là chiến binh không? Vì cháu đã gọi mức mười là chín.”
Nhưng sự thật không phải như vậy, tôi gọi mức đó là chín bởi vì tôi để dành con
số mười cho riêng tôi. Và giờ đây mới chính thức là nó, cấp độ mười khủng
khiếp, cứ dội vào người tôi từng chập từng chập trong khi tôi nằm chết lặng
trên giường, một mình, mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà. Nó giống như những con
sóng hất tung tôi vào đá, sau đó lại kéo tôi trở ra biển để ném tôi một lần nữa
vào vách đá lởm chởm, rồi bỏ mặc tôi dập dềnh trên mặt nước, không sao chìm
xuống được.
Cuối cùng tôi bấm số điện thoại gọi cho anh. Điện thoại reo năm lần và sau đó
chuyển sang chế độ hộp thư thoại. “Bạn đang được chuyển đến hộp thư thoại của
Augustus Waters,” tiếng anh cất lên, vẫn là chất giọng lanh lảnh đã làm xiêu
lòng tôi. “Hãy để lại lời nhắn.” Sau đó là tiếng bíp và không khí ở đầu bên kia
im ắng đến kỳ lạ. Sau khi anh mất, tôi chỉ muốn quay lại với không gian thứ ba
bí mật vẫn thường xuyên hiện mỗi khi chúng tôi nói chuyện điện thoại. Tôi chờ
đợi cảm giác ấy, nhưng nó đã không bao giờ đến: không khí chết lặng ở bên kia
rất bức bối và cuối cùng tôi cúp máy.
Tôi lôi laptop từ dưới gầm giường lên, khởi động máy và truy cập vào trang cá
nhân của anh, nay đã tràn ngập vô vàn lời chia buồn. lời chia buồn gần nhất là:
Tôi yêu cậu, người anh em. Hẹn gặp cậu ở bên kia thế giới.
… Được viết bởi một người mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến. Trên thực tế, hầu
như tất cả các thông điệp đăng trên này, đến tới tấp bằng với tốc độ đọc của
tôi, được viết bởi những người tôi chưa bao giờ gặp mặt và anh cũng chưa bao
giờ nhắc đến, những người đang ca ngợi nhiều phẩm chất khác nhau của anh vào
ngày hôm nay khi anh đã ra đi, dù tôi biết một thực tế rằng họ đã chẳng gặp anh
trong nhiều tháng trời và cũng không hề bỏ công đến thăm anh. Tôi tự hỏi không
biết trang cá nhân của tôi sẽ như thế nào khi tôi chết, hoặc giả tôi đã rời
khỏi trường học và cuộc sống này đủ lâu để thoát khỏi những hoài niệm mênh mang.
Tôi tiếp tục đọc.
Tôi đã bắt đầu thấy nhớ cậu, người anh em.
Em yêu anh, Augustus. Cầu
Chúa ban phúc lành và phù hộ cho anh.
Bạn sẽ sống mãi trong trái tim chúng tôi, anh chàng cừ khôi.
(Câu này đặc biệt khiến tôi tức giận, bởi vì nó ngụ ý về sự bất tử của những
người còn sống: Bạn sẽ sống mãi trong ký ức của tôi bởi vì tôi sẽ sống mãi! GIỜ
ĐY TÔI LÀ CHÚA TRỜI CỦA BẠN, CHÀNG TRAI ĐÃ KHUẤT KIA! BẠN LÀ CỦA TÔI! Mà suy
nghĩ rằng mình sẽ không chết lại chính là một tác dụng phụ của việc chờ chết.)
Mày luôn luôn là một người bạn tuyệt vời. Tao xin lỗi đã không gặp mày thường
sau khi mày rời khỏi trường, người anh em. Tao cá rằng mày đang chơi bóng rổ
trên thiên đường.
Tôi tưởng tượng anh Augustus Waters sẽ phân tích lời chia buồn ấy như sau: Nếu
tao đang chơi bóng rổ ở trên thiên đường, tức tồn tại ở đâu đó một địa điểm có
thực là thiên đường với những quả bóng rổ có thực ư? Ai làm ra quả bóng rổ nói
trên? Có phải là những linh hồn kém may mắn hơn ở trên thiên đường đang làm
việc trong một nhà máy sản xuất bóng rổ thiên đường để cho tao chơi không? Hoặc
giả một Đấng toàn năng đã tạo ra mấy quả bóng rổ từ những lỗ chân không trong
không khí? Liệu thiên đường này có phải là một loại vũ trụ không thể quan sát,
nơi mà các định luật vật lý không áp dụng được, và nếu đúng như vậy thì tại làm
sao lại chơi môn bóng rổ dở hơi này trong khi tao có thể được bay nhảy, đọc
sách, ngắm nhìn mấy cô em xinh đẹp, hay làm bất cứ trò gì khác mà tao thật sự
thích? Cái cách mày đang tưởng tượng về linh hồn đã khuất của tao thực chất là
nói về chính bản thân mày hơn là nói về con người của tao trước đây hay tao bây
giờ.
Ba mẹ anh gọi điện thoại cho tôi lúc giữa trưa để thông báo rằng tang lễ sẽ được
cử hành trong năm ngày nữa, vào thứ Bảy. Tôi hình dung ra cảnh nhà thờ đông
nghẹt những người toàn nghĩ rằng anh thích bóng rổ, và tôi thấy buồn nôn. Tuy
nhiên tôi biết mình phải đến dự vì tôi sẽ phát biểu và vân vân này nọ. khi tôi
cúp máy, tôi quay lại đọc trang cá nhân của anh:
Vừa nghe tin Gus Waters mất sau một cuộc chiến dài đằng đẵng với bệnh ung thư.
Hãy an nghỉ nhé, anh bạn.
Tôi biết những người này thực sự buồn, và thật ra tôi không giận họ. Tôi chỉ
giận vũ trụ này. Mặc dù vậy, có một chuyện cứ khiến tôi tức điên: Ta sẽ được
tất cả những người bạn này quan tâm khi mà ta không cần bạn bè nữa. Tôi viết
đáp lại lời chia buồn trên như sau:
Chúng ta sống trong một vũ trụ dành cho sự sáng tạo cũng như tẩy xóa nhận thức.
Anh Augustus Waters không phải mất sau một cuộc chiến dài đằng đẵng với bệnh
ung thư, mà anh qua đời sau một cuộc chiến dài đằng đẵng với ý thức của con
người, một nạn nhân - sau này bạn cũng thế - của vũ trụ, vốn có thể tạo ra và
đồng thời phá hủy tất cả.
Tôi đăng nó lên và chờ đợi ai đó sẽ trả lời, nên cứ liên tục nhấn refresh để
tải lại trang cá nhân của anh. Chẳng có gì. Bình luận của tôi bị lạc mất trong
cơn bão của những thông điệp chia buồn mới. Mọi người sẽ nhớ anh rất nhiều. Mọi
người đều đang cầu nguyện cho gia đình anh. Tôi nhớ đến lá thư của Van Houten:
Viết lách không thể hồi sinh sự mất mát. Thực chất chỉ là chôn vùi.
Sau một lúc, tôi đi ra phòng khách ngồi xem ti-vi với Ba Mẹ. Tôi cũng mơ hồ
không biết ti-vi đang chiếu chương trình gì, trong một khoảng khắc Mẹ tôi chợt
hỏi: “Hazel, Ba Mẹ có thể làm gì cho con đây?”
Tôi chỉ lắc đầu và thút thít khóc.
“Ba Mẹ có thể làm gì giúp con đây?” Mẹ hỏi lại.
Tôi nhún vai.
Nhưng Mẹ cứ hỏi hoài như thể bà có thể làm được một điều gì đó, cho đến khi tôi
nằm dài trên chiếc xô-pha dụi đầu vào lòng bà còn Ba tôi thì đến ôm lấy chân
tôi. Tôi vòng tay ôm ngang hông Mẹ, cả Mẹ cả Ba cứ ngồi ôm tôi như thế hàng giờ
trong lúc từng đợt sóng vẫn nhồi tôi không dứt.
Khi cả nhà tôi mới đến, tôi
ngồi ở phía cuối phòng thăm viếng. Đó là một căn phòng nhỏ với bốn vách tường
đá nằm cạnh thánh đường thuộc nhà thờ Trái Tim của Chúa Giêsu. Trong phòng xếp
khoảng tám mươi ghế ngồi và khách viếng đã ngồi kín hai phần ba số ghế, nhưng
cảm giác trống trải của một phần ba số ghế còn lại vẫn lớn hơn.
Trong một lúc, tôi chỉ nhìn mọi người đi lên phía quan tài, được đặt trên một
cỗ xe và phủ khăn màu tím. Tất cả những người này tôi chưa bao giờ gặp qua
trước đây sẽ đến quỳ xuống bên cạnh anh hoặc đứng và cúi nhìn anh một hồi, có
người sẽ khóc, có người sẽ nói gì đó, và sau cùng tất cả đều sẽ chạm tay vào
quan tài thay vì vào anh, bởi vì không có ai muốn chạm vào người chết cả.
Ba mẹ anh Gus đang đứng bên cạnh quan tài ôm tất cả những ai đi ngang qua chỗ
họ. Nhưng khi nhìn thấy tôi, họ mỉm cười và lê bước về phía tôi. Tôi đứng dậy
và ôm chầm lấy ba anh trước, sau đó đến mẹ anh, bà ôm riết lấy tôi như cách anh
Gus vẫn hay ôm, siết chặt bả vai tôi. Cả hai trông già hẳn đi – hốc mắt trũng
sâu, da chùng xuống trên khuôn mặt mệt mỏi. Họ cũng đã đến đích của cuộc đua
vượt rào nước rút rồi.
“Thằng bé yêu cháu rất nhiều,” mẹ của Gus nói. “Nó yêu thực sự đó. Không phải
là – đó không phải tình yêu kiểu trẻ con đâu,” bà nói thêm, như thể tôi không
hề hay biết.
“Anh ấy cũng yêu bác rất nhiều,” tôi nói khẽ. Thật khó diễn tả cảm giác đó,
nhưng nói chuyện với ông bà không khác nào đang đâm họ và bị họ đâm lại. “Cháu
rất tiếc!” Tôi nói. Và sau đó ông bà quay sang nói chuyện với Ba Mẹ tôi –
nguyên cuộc trò chuyện chỉ toàn những cái gật đầu và mím chặt môi. Tôi nhìn lên
phía quan tài thấy không còn ai ở đó nên quyết định đi lên gặp anh. Tôi kéo ống
ô-xy ra khỏi mũi và vòng ra sau đầu, tháo ra đưa cho Ba tôi. Tôi muốn chỉ có
tôi và chỉ có anh. Tôi giữ chặt chiếc ví nhỏ của mình và bước lên lối đi giữa
các hàng ghế.
Quãng đường mới dài làm sao, nhưng tôi nhủ với hai lá phổi của mình là hãy im
miệng và mạnh mẽ hơn, rằng chúng có thể làm được điều này. Tôi có thể nhìn thấy
anh khi sắp đến gần: tóc anh được rẽ ngôi gọn gàng về phía bên trái theo một
cách mà nhìn anh rất kinh hoàng, và khuôn mặt anh đã được liệm bằng kỹ thuật
plastic hóa. Nhưng vẫn là anh, chàng Gus cao lêu nghêu và xinh đẹp của tôi.
Tôi muốn mặc bộ đầm đen nhỏ nhắn tôi đã mua vào dịp sinh nhật lần thứ mười lăm,
bộ tử phục của tôi, nhưng hiện thời không vừa nữa nên tôi chỉ mặc một chiếc váy
đen đơn giản, dài ngang gối. Anh Augustus mặc lại bộ suit có ve áo mỏng mà anh
từng diện ở Oranjee.
Khi tôi quỳ xuống, tôi nhận ra rằng họ đã vuốt mắt anh khép lại – dĩ nhiên là
phải thế - và rằng tôi sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy đôi mắt xanh của anh
nữa. “Em yêu anh, hiện tại,” tôi thì thầm. Sau đó tôi đặt tay lên giữa ngực anh
và vỗ về: “Không sao đâu, anh Gus. Không sao đâu. Ổn rồi, mọi việc ổn rồi, anh
có nghe em nói không?” Tôi đã và đang không có chút tự tin nào rằng anh có thể
nghe thấy lời tôi. Tôi cúi xuống và hôn lên má anh. “Okay,” tôi nói. “Okay.”
Hốt nhiên tôi ý thức được rằng tất cả mọi người đang nhìn chúng tôi, và lần
cuối cùng rất nhiều người nhìn thấy hai chúng tôi hôn nhau là khi hai đứa đang
ở trong Nhà lưu niệm Anne Frank. Nhưng, nói cho đúng hơn, không còn hai chúng
tôi để người ta nhìn nữa. chỉ còn mỗi mình tôi.
Tôi mở ví và lấy ra một hộp Camel Lights. Với hy vọng không ai ở đằng sau trông
thấy, tôi nhanh nhẹn nhét hộp thuốc vào khoảng trống giữa người anh và lớp vải
bạc sang trọng của quan tài. “Anh có thể châm thuốc,” tôi thì thầm với anh. “Em
không phiền lòng đâu.”
Trong khi tôi chuyện trò với anh, Ba Mẹ đã di chuyển lên hàng ghế thứ hai cùng
với bình ô-xy, vì vậy tôi không phải đi nhiều khi quay trở xuống. Ba đưa cho
tôi một mẩu khăn giấy khi tôi ngồi xuống. Tôi hỉ mũi vào khăn, quàng ống trợ
thở quanh vành tai và đặt các đầu phun ô-xy trở lại vào mũi.
Tôi cứ nghĩ chúng tôi sẽ đi vào khu thánh đường trang trọng phù hợp với một lễ
tang thực sự, nhưng tất cả chỉ diễn ra trong căn phòng phụ đó – Cánh Tay của
Chúa Giêsu theo nghĩa đen, tôi đoán đó là một phần của thập tự giá nơi Chúa bị
đóng đinh. Ngài mục sư đi lên đứng trước quan tài, khiến quan tài trông như cái
bục thuyết giáo. Ông nói sơ qua về cuộc chiến kiên cường của anh Augustus và
rằng tinh thần chiến đấu anh dũng của anh khi đối mặt với bệnh tật là nguồn cảm
hứng cho tất cả mọi người. Tôi bắt đầu phát bực khi ông mục sư kết luận: “Ở
trên thiên đường, Augustus cuối cùng sẽ được chữa lành và nguyên vẹn hơn,” ngụ
ý rằng khi còn sống anh không được nguyên vẹn như mọi người vì bị tháo mất một
chân. Tôi đã không thể kìm lại tiếng thở dài chán chường. Ở bên cạnh, Ba bóp
gối tôi và lừ mắt tỏ vẻ không hài lòng, nhưng từ hàng ghế sau có tiếng một
người nào đó thì thầm bên tai tôi, khẽ đến nỗi tôi gần như không nghe thấy,
“Toàn nói tào lao thiên địa, hở, bé con?”
Tôi xoay đầu lại.
Peter Van Houten mặc một bộ suit trắng bằng vải lanh, được cắt may vừa vặn với
thân hình phục phịch của ông ta, bên trong là chiếc áo sơ-mi xanh lơ và chiếc
cà-vạt màu xanh lục. Ông ta ăn mặc giống như đang ở xứ thuộc địa Panama, chứ
không phải trong một buổi tang lễ. Tiếng ông mục sư vang lên: “Chúng ta hãy
cùng cầu nguyện!” nhưng trong khi những người khác cúi đầu, tôi cứ há hốc mồm
nhìn Peter Van Houten. Được một lúc, ông ta thì thào: “Chúng ta phải giả vờ cầu
nguyện chứ,” và cúi đầu.
Tôi quay lên, cố gắng quên đi sự có mặt của ông ta và chỉ chú tâm cầu nguyện
cho anh Augustus. Tôi ưu tiên lắng nghe ngài mục sư đang thuyết giảng và quyết
không nhìn lại.
Ngài mục sư gọi anh Isaac lên, lần này anh nghiêm trang hơn so với buổi tang lễ
thử. “Augustus Waters là Thị trưởng của Thành phố Ung-thư-sinh Huyền bí, và
không ai có thể thay thế anh ấy,” anh Isaac bắt đầu. “Mọi người có thể kể cho
bạn nghe nhiều chuyện khôi hài về Gus, vì đó là một anh chàng hóm hỉnh, nhưng
tôi xin kể ở đây một câu chuyện nghiêm túc: Một ngày sau khi tôi phẫu thuật
mắt, Gus đã đến bệnh viện. Lúc ấy tôi vừa bị mù hẳn, vừa bị thất tình nên chẳng
thiết làm gì cả, thì Gus xông vào và hét to: ‘Tao có tin này hay lắm nè!’ Và
tôi đã phản ứng ỉu xìu kiểu, ‘Thật tình bây giờ tao chẳng có tâm trí nào để
nghe tin tốt lành hết!’, và Gus nói, ‘Chắc chắn mày sẽ muốn nghe tin này!’ nên
tôi tò mò hỏi: ‘Thôi được, đó là tin gì?’ thế là anh ấy tuôn luôn một tràng,
‘Từ nay mày sẽ sống một cuộc đời tốt đẹp và lâu dài đầy ắp những khoảnh khắc
tuyệt vời lẫn kinh dị mà mày chưa thể nào tưởng tượng ra!’”
Anh Isaac không thể đọc tiếp, hoặc có lẽ anh chỉ viết có bấy nhiêu.
Sau khi một người bạn thời trung học kể vài câu chuyện về tài năng chơi bóng rổ
đáng nể cùng nhiều phẩm chất tốt đẹp của anh Gus khi còn trong đội, ngài mục sư
lại mời tiếp: “Bây giờ chúng ta sẽ nghe vài lời gởi gắm từ một người bạn đặc
biệt của Augustus, Hazel.” Bạn đặc biệt? Có tiếng cười khúc khích từ hàng ghế
khách tham dự nên tôi nghĩ sẽ không sao khi tôi mở đầu bằng cách đính chính với
ông mục sư, “Tôi là bạn gái của anh ấy.” Câu đó làm rộ lên một tràng cười. Rồi
tôi bắt đầu đọc bài điếu mà tôi đã viết.
“Có một lời trích rất hay trong nhà anh Gus, một câu khiến cả anh và cả tôi
thấy được an ủi thật nhiều. Nếu không có nỗi đau, làm sao chúng ta cảm thụ được
niềm vui?”
Tôi lảm nhảm thao thao bất tuyệt về mấy Lời Động Viên trong nhà anh Gus trong
khi ba mẹ anh, tay trong tay, ôm chặt nhau và gật gù theo từng lời tôi nói. Đám
tang, tôi đã quyết định rồi, là dành cho người còn sống.
Sau khi nghe chị Julie phát biểu thì buổi lễ kết thúc với phiên cầu nguyện cho
anh Gus được hội ngộ với Chúa, và tôi nhớ đến những lời anh nói ở Nhà hàng
Oranjee, rằng anh không tin vào lâu đài bằng mây và đàn hạc trên thiên đường,
nhưng anh tin có Kiếp khác với chữ K viết hoa tồn tại nên trong khi cầu nguyện,
tôi đã cố gắng tưởng tượng anh đang ở một Thế giới khác với chữ T viết hoa.
Nhưng sau đó tôi vẫn thấy khó mà tin rằng anh và tôi sẽ có cơ hội ở bên nhau
lần nữa. Tôi từng biết quá nhiều người đã khuất. Tôi biết rằng bây giờ thời
gian trôi qua với tôi khác hẳn so với anh – rằng tôi, giống như tất cả mọi
người trong căn phòng này, sẽ tiếp tục góp nhặt tình yêu cùng những mất mát
trong khi anh thì không. Và đối với tôi, đó là tấn bi kịch cuối cùng và thực sự
không thể chịu đựng nổi: Giống như vô số những người đã khuất, anh sẽ một lần
và mãi mãi bị giáng bậc từ người đang bị ám ảnh thành kẻ chuyên ám ảnh tâm trí
người khác.
Và sau đó một trong hai người anh rể của Gus mang lên một máy cassette cầm tay
và bật bài hát mà anh Gus đã chọn – một bài hát buồn và êm dịu mang tên “Người
tình mới” của ban nhạc The Hectic Glow. Nói thật là tôi chỉ muốn về nhà. Tôi
chẳng biết bất kỳ ai trong số những người đến viếng và tôi thấy gai cả người
khi đôi mắt ti hí của ông Peter Van Houten cứ dán chặt vào bờ vai trần của tôi.
Sau khi bài hát kết thúc, tất cả mọi người đều đến chỗ tôi khen tôi phát biểu
hay và buổi lễ thật đáng yêu. Toàn là những lời dối trá: Đây là một lễ tang và
nó giống với mọi lễ tang khác.
Những người hộ tang của anh – anh chị em họ, ba anh, một người chú và bạn bè
anh mà trước đây tôi chưa từng gặp – đều đến chỗ anh và bắt đầu đi bộ về phía
xe tang.
Khi Ba Mẹ và tôi đã vào trong xe, tôi nói, “Con không muốn đi đâu. Con thấy mệt
rồi.”
“Hazel,” Mẹ gắt.
“Mẹ ơi, ở đó sẽ không có chỗ ngồi còn nghi lễ cứ kéo dài lê thê và con thì kiệt
sức.”
“Hazel, chúng ta phải đi vì hai bác nhà Waters,” Mẹ bảo.
“Chỉ vì…” Tôi định nói nhưng thôi. Không hiểu vì sao tôi thấy mình thật nhỏ bé
trên băng ghế sau. Tôi muốn mình còn bé. Tôi muốn trở lại như hồi sáu bảy tuổi
gì đó. “Thôi được rồi,” tôi đầu hàng.
Trong một lúc tôi chỉ chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ. Thật sự tôi không muốn đi.
Tôi không muốn nhìn thấy họ đặt anh xuống hố đất mà anh đã chọn cùng với ba
mình. Tôi không muốn nhìn thấy ba mẹ anh khuỵu xuống trên thảm cỏ ướt đẫm sương
và rền rĩ trong đau đớn. Tôi không muốn nhìn thấy cái bụng béo ụ vì rượu của
Peter Van Houten căng tròn sau lần áo suit lanh. Tôi không muốn khóc trước mặt
nhiều người. Tôi không muốn rải một vốc cát lên mộ anh. Tôi không muốn Ba Mẹ
mình phải đứng dưới ánh nắng chiều nghiêng nghiêng giữa bầu trời trong xanh,
trong đầu nghĩ vẩn vơ đến ngày này của họ, về đứa con gái cưng và mộ phần của
tôi và quan tài của tôi và vốc cát rải lên mộ tôi.
Nhưng tôi đã làm những điều này. Tôi đã làm tất cả các kiểu kể trên và tệ hơn,
bởi vì Ba Mẹ tôi thấy chúng tôi nên làm thế.
…
Sau khi đã chôn cất anh Gus xong, Van Houten bước đến chỗ tôi, đặt bàn tay béo
ịch lên vai tôi và nói, “Tôi có thể đi nhờ xe một đoạn không? Xe tôi thuê đậu
lại dưới chân đồi rồi.” Tôi nhún vai không đáp, và ông ta nhanh nhảu mở cửa sau
bên phải ngay khi Ba tôi mở khóa cửa.
Bên trong xe, ông ta chồm người tới khoảng trống giữa hai ghế trước và nói,
“Peter Van Houten: Tiểu thuyết gia danh dự và Kẻ phá đám bán chuyên nghiệp.”
Ba Mẹ tôi tự giới thiệu. Ông ta bắt tay ông bà. Tôi khá ngạc nhiên khi Peter
Van Houten đã bay nửa vòng trái đất để tham dự lễ tang. “Sao ông lại –” tôi vừa
mở miệng định hỏi thì ông ta đã cắt ngang.
“Tôi đã dùng mạng Internet quỷ quái của cô cậu để theo dõi các bản cáo phó của
Indianapolis.” Ông ta thò tay vào áo suit lanh của mình và rút ra một chai rượu
whiskey.
“Và ông cứ thế mua một vé và –”
Ông ta ngắt lời tôi lần nữa trong khi mở nắp chai. “Vé hạng nhất tốn mười lăm
ngàn đó, nhưng tài chính của tôi đủ mạnh để thực hiện những ý tưởng bất chợt
như vậy. Và đồ uống thì miễn phí trong suốt chuyến bay nên nếu mình uống nhiều
chút xíu là coi như có thể huề vốn.”
Van Houten nốc rượu ừng ực và sau đó nghiêng người về phía trước, đưa bình cho
Ba tôi. Ba từ chối, “À không, cảm ơn anh đã mời.” Sau đó, ông ta hất chai về
phía tôi. Tôi chộp lấy nó.
“Hazel,” Mẹ tôi ngăn nhưng tôi vẫn tháo nắp và nhấm nháp. Nó làm dạ dày của tôi
mang cảm giác như phổi của tôi vậy. Tôi đưa chai trả lại Van Houten. Ông ta hớp
một ngụm dài sảng khoái rồi nói, “Cho nên. Omnis cellula e cellula.”
“Hở?”
“Bạn trai Waters của cô bé và tôi có thư từ qua lại và trong lá thư cuối cùng
của cậu ấy –”
“Khoan đã, giờ ông chịu đọc thư từ fan hâm mộ rồi à?”
“Không, cậu ấy gửi thư đến thẳng nhà tôi chứ không thông qua nhà xuất bản nên
tôi không thể gọi cậu ấy là một fan hâm mộ. Cậu ấy khinh thường tôi. Nhưng dù
sao đi nữa, cậu ấy khăng khăng rằng tôi sẽ được xí xóa cho hành vi sái trái của
mình nếu đến tham dự lễ tang của cậu ấy và nói cho cô bé biết mẹ của Anna sau
này sẽ ra sao. Nên tôi đến đây và câu trả lời của cô bé là: Omnis cellula e
cellula.”
“Cái gì?” tôi hỏi một lần nữa.
“Omnis cellula e cellula,” ông ta lặp lại. “Tất cả các tế bào đều sinh ra từ tế
bào. Mỗi tế bào được sinh ra từ một tế bào trước đó, vốn cũng được sinh ra từ
một tế bào trước đó nữa. Cuộc sống xuất phát từ cuộc sống. Cuộc sống đem lại
cuộc sống đem lại cuộc sống đem lại cuộc sống đem lại cuộc sống, và cuộc sống
cứ nối tiếp như vậy.”
Chúng tôi đã xuống đến chân đồi. “Được rồi, được rồi,” tôi đáp, thật tình tôi
không có tâm trạng thảo luận việc này. Peter Van Houten sẽ không oanh tạc lễ
tang của anh Gus. Tôi sẽ không cho phép điều đó. “Cảm ơn,” tôi nói. “Giờ thì
chúng ta đã ở dưới chân đồi.”
“Cô bé không muốn tôi giải thích thêm à?” Ông ta hỏi.
“Không,” tôi nói. “Tôi ổn mà. Tôi nghĩ ông là một tay nghiện rượu thảm hại
thích nói trên trời dưới đất để gây chú ý giống như một ông cụ non mười một
tuổi không hơn không kém. Và tôi thật thấy tội cho ông. Tuy nhiên không, ông
không còn là người đã viết tác phẩm Nỗi đau tột cùng nữa, vì vậy ông không được
viết phần tiếp theo ngay cả khi ông muốn. Dù sao vẫn cảm ơn ông và chúc ông có
một cuộc sống tuyệt vời.”
“Nhưng mà –”
“Cảm ơn ông đã cho tôi uống rượu,” tôi nói tiếp. “Còn bây giờ xin ông ra khỏi
xe.” Nhìn Van Houten bí xị như vừa bị mắng. Ba tôi đã dừng xe hẳn và một phút
trôi qua, chúng tôi vẫn đậu ở đó dưới mộ phần anh Gus cho đến khi Van Houten mở
cửa và, cuối cùng im lặng, bỏ đi.
truyenhoangdung.blogspot.com
No comments
Post a Comment