AI MUA HÀNH TÔI - TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM
AI MUA HÀNH TÔI
Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi
chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ anh xách búa lên rừng đốn
củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con
chim sẻ tới đậu trên một phiến đá ở gần chỗ mình làm việc. Nhìn thấy thế, anh
bỗng động lòng thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt vào miệng loài ác điểu.
Anh bèn nhặt hòn đá ném con quạ. Quạ
giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh
nhặt đá ném thêm và mắng:
- "Đồ chim dữ, hãy cút ngay
Quạ hậm hực
bay đi, miệng còn đe dọa sẽ báo thù. Anh chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang
thoi thóp, cố tìm cách ủ cho nó sống lại. Chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ
đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một
vật. Một lát sau, con chim đã bay trở lại miệng ngậm một cái lọ bé xíu đặt
xuống bên cạnh và nói:
- "Đây là là nước thần có phép làm cho người trẻ
lại, vật thì lớn thêm, trần gian không ai có".
Nói rồi nó vỗ cánh bay đi.
Anh ngồi lại tần ngần mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngạt
ngào.
Anh nghĩ bụng:
- "Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm dỏm, có
đâu để hạng như mình dùng".
Rồi anh nút lọ lại cẩn thận, khi gánh củi về,
treo lọ lên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh
cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa.
Ít năm sau, chật vật mãi anh chàng
mới cưới được vợ. Vợ anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn, nên đen
đủi, xấu xí. Nhưng hai vợ chồng rất thương yêu nhau.
Một hôm chồng đi cày vắng, vợ ở nhà
quét dọn khắp nơi. Thấy một cái lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy
xuống mở nút ra xem. Khi ngửi thấy mùi thơm, chị ta đồ là dầu thơm gội đầu. Lát
sau, chị nấu nước tắm gội rồi tiện tay đổ lọ nước ra xức khắp tóc tai mình mẩy.
Không ngờ sau khi xức xong, chị ta
tự nhiên trở nên xinh xắn trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp. Nước
thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây hành cũng
lớn phổng lên một cách lạ thường: củ to như bình vôi, dọc dài bằng đòn gánh.
Khi người chồng đi cày về nhìn mặt
vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói
thì cơ hồ anh không nhận ra là vợ mình nữa. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh
mới sực nhớ tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết
lấy chi cân, anh ngắm và mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ
nghe.
Từ đấy anh cứ quấn quýt lấy vợ không
rời. Công việc đồng áng vì thế cũng mười phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì
đói mất nên anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ, anh thuê thợ vẽ hình vợ. Mỗi khi
ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thỏa. Một hôm
anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày
được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà xuống quắp lấy bức tranh
mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp
nữa. Quạ đã cất cánh bay cao và bay đi rất xa, chỉ một loáng đã mất hút. Báo
thù việc anh ném đá giành mồi của nó ngày xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận
kinh đô, thả xuống ở sân rồng. Bọn lính thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem
trình vua.
Cầm lấy bức truyền thần, vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo
dạ:
- "Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có
người nào đẹp bằng người đàn bà trong bức tranh này. Hẳn là trời sai con quạ
đến mách cho ta đây!".
Lập tức vua ra lệnh cho một quan dại
thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà như đã vẽ trong tranh
mang về. Quan đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ
hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến
để cho mọi người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức
tranh ra giả tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận.
Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ
chồng anh chàng có lọ nước thần và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên
anh chàng sa vào mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh anh không đắn đo gì cả, lật
đật bước tới để nhận. Nhưng anh không ngờ bọn lính chộp lấy anh như chộp con
mồi. Chúng theo anh về nhà và tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá,
chúng vội đưa kiệu rước nàng về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than
khóc.
Sau khi bị bắt vào cung, người đàn
bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai
đến gần. Đem được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết
sức buồn phiền vì mọi thứ dỗ dành, dọa nạt đều không thể làm cho người ngọc nở
một nụ cười hoặc nói lên một tiếng. Vua bèn hạ lệnh cho rao trong dân chúng hễ
ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc
hậu. Nghe tin này, có nhiều người, từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng
cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thủy, v.v... đua nhau trẩy kinh
hy vọng dùng tài phép lớn cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân
thưởng. Nhưng dù đã giở đủ mọi trò, đều vô hiệu.
Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ
bị quan quân bắt đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai
làm cho người đẹp trong cung nói cười được thì sẽ được vua ban thưởng, anh biết
là vợ mình đang ở cung vua, bèn quyết vào kinh tìm vợ. Trước khi đi, anh nhổ
mấy củ hành ở cạnh giếng buộc làm một gánh quẩy theo. Đến kinh đô anh quảy gánh
của mình đi lại trước cửa hoàng cung rao to lên những câu:
Dọc bằng đòn gánh,
Củ bằng bình vôi,
Ai mua hành tôi,
Thì thương tôi với!
Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi
lúc mỗi lớn. Nét mặt của vợ anh tự nhiên cũng mỗi lúc mỗi tươi. Cuối cùng, nàng
quay lại bảo thị nữ:
- Hãy gọi người hàng hành vào cho
ta!
Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười
lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở
cờ trong bụng, lại thấy những cây hành to lớn lạ thường thì nhà vua lấy làm
kinh ngạc quá đỗi. Vua ngỡ là nhờ những cây hành kỳ lạ này mà người đẹp nói
cười. Vua liền nảy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh gánh hành để làm vui
lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng:
- Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo
ra mau!
Vui cởi áo long bào vứt cho anh và
mặc áo của anh vào. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rồi quẩy
gánh hành qua lại trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được. Thấy vậy,
vợ anh hàng hành cười ngặt nghẽo. Vua thích thú lại càng làm già. Nhưng đột
nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ liền
nhảy xổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng:
- Mình hãy mau mau trèo lên ngai
vàng đi!
Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng
giữa lúc trăm quan và cung nữ rập đầu bái mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ
trọn đời
No comments
Post a Comment